Thursday, July 5, 2012

Trung Tướng Nguyễn Hữu Có


Số Quân: 45/102.624
Sinh tháng 2-1925 tại Định Tường

Học sinh Trường Quốc Học Khải Định, Huế
1939-1943 Trường Thiếu Sinh Quân Đông Dương
SVSQ Khóa 1 Bảo Đại trường Võ Bị Huế
Tốt nghiệp Thủ Khoa cấp bậc Thiếu Úy
1950: Trung Úy Chỉ Huy Trưởng trường Thiếu Sinh Quân Gia Định
1954: Thiếu Tá Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn 31 Bộ Binh
1955: Trung Tá Tư Lệnh Sư Đoàn 31 Bộ Binh
- Chỉ Huy Trưởng Phân Khu Miền Nam Đông Phần
1956: Chỉ Huy Phó Chiến Dịch Bình Định miền Đông nam phần.
1957: Tư Lệnh Sư Đoàn Khinh chiến số 16
1959: Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn 2.
26-10 Thăng Đại Tá Thực Thụ
1963: Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh
2-11 Vinh thăng Thiếu Tướng
4-11 Tư Lệnh Quân Đoàn 4 và Vùng 4 Chiến Thuật
5-11 Ủy Viên Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng
1964: Tư Lệnh Quân Đoàn 2 và vùng 2 chiến thuật.
1965: Tổng Ủy Viên Chiến Tranh kiêm Ủy Viên Quốc Phòng
15-7 Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH
1-10 Đệ Nhất Phó Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương ( Phó Thủ Tướng)
1-11 Vinh thăng Trung Tướng Nhiệm Chức.
1966: Tham dự hội nghị thượng đỉnh Honolulu
1967: Công Du Nam Hàn, Đài Loan và Hồng Kông
1967: 27-1 Giải Nhiệm chức vụ phó chủ tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung ương và Giải Ngủ
1970: Phó Tổng Giám Đốc Tín Nghĩa Ngân Hàng
1975:
28-4 tái ngủ cấp bậc củ là Trung Tướng
29-4 Phụ Tá Tổng Trưởng Quốc Phòng kiêm Cố Vấn Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH.
Sau 30-4-1975 bị tù Cộng Sản cho đến 14-9-1987.
Từ trần vào ngày 3-7-2012 tại Việt Nam



Sau tin buồn về Trung Tướng Nguyễn Hữu Có qua đời ngày 3 tháng 7 tại Saigon.Trên diễn đàn xuất hiện những giòng chữ nguyền rủa lăn mạ thậm tệ người đã khuất, đồng thời trưng dẫn bức ảnh chụp Trung Tướng Nguyễn Hữu Có ngồi bên cạnh Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, học giả Nguyễn Đình Đẩu và Ls Triệu Quốc Mạnh trả lời phỏng vấn của báo chí vào dịp Cộng Sản mừng chiến thắng 30 tháng 4 tổ chức vào năm 2005. Bên dưới bức ảnh ghi chú: Ông Bà Nguyễn Hữu Có là nhân sĩ tự do của Mặt Trận Tổ Quốc. 
Thực tế Mặt Trận Tổ Quốc chỉ là thùng rác để CSVN ném vào đó những thành phần bất mản có uy tín tên tuổi, những đối tượng bất khiển dụng, những khuôn mặt hữu danh trong chế độ củ còn ở lại VN và tạp loại đa dạng đại biểu ngành nghề trong xã hội. Họ, kể cả những nhân vật chóp bu của MTGPMN và Chánh Phủ Cộng Hòa Miền Nam VN như: Nguyễn Hữu Thọ, Hùynh Tấn Phát, Dương Quynh Hoa, Trịnh Đình Thảo, Lâm Văn Tết, Nguyễn Hộ, Tạ Bá Tòng ... không có bất cứ quyền lực ảnh hưởng nào đối với những quyết định của Đảng lảnh đạo, Nhà Nước cầm quyền quản ly . MTTQ được xữ dụng như bức tranh tô màu trang trí, tập họp nhân sĩ thành viên làm công cụ để CSVN bốc phét tuyên truyền.
Nam 1990, trong lúc vui chuyện tôi hỏi đùa về tin đồn: Trung Tướng Có là Thượng Tá Cộng Sản nằm vùng. 
Phu nhân Tướng Có đáp:" nằm vùng thì không, nhưng nằm Mùng chống muổi thì có". Một người bạn của tôi, trùng tên NHCó, nguyên là sĩ quan tùy viên của Đại Tướng Trần Thiện Khiêm, chức vụ sau cùng là Đại tá Phụ tá Chánh Võ Phòng Phủ Thủ Tướng.  Sau 30/4/75, bị tù lao động khổ sai 13 năm, nhưng cũng bị chụp mũ cán bộ VC nằm vùng. Câu chuyện ủy ban 13 con ma và chức vụ Giám Đốc Công Trường Thanh Hóa của Tướng Có cũng la san pham gán ghép thêu dệt xuất phát từ chủ trương phun nọc gây phân hóa hàng ngủ người quốc gia. Gần đây,  mấy bài  viết tren Internet bịa đặt Trung Tá Vương Văn Trổ, Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Kiên Giang "là Việt Cộng xuất đầu lộ diện ngày 1 tháng 5, 1975, mặc bà bà đen quấn khăn rằn mang súng AK".Trung Tá VVTrổ, một trong Ngủ Hổ Miền Tây can trường trong chiến trận, nổi danh cùng thời với những người hùng Lê Văn Hưng, Lưu Trọng Kiệt.. Sau ngày 30/4, Cộng sản sát hại(chặt đầu) bào huynh của Trung Tá Trổ tại Long Thành. Trung Tá Trổ bị tịch thu tài sản, bắt đi tù cải tạo hơn 13 năm, lúc được phóng thích trở về không có một mái nhà đề che mua nang.Tôi khâm phục sự bình tỉnh của Trung Tá Trổ, xem thường những tin thất thiệt, nhiều ác y'.
Theo lời của Tướng Có tiết lộ với người viết: "Nguyễn Cao Ky ném đá dấu tay , thuyết phục (đúng hơn là ra lệnh vì quyền lực lúc đó trong tay Tướng Ky) Ông Nguyễn Văn Thiệu ky' lệnh giải nhiệm và buộc Trung Tướng NHCó, Phó Thủ Tướng Chánh Phủ giải ngủ.
Paul Vân
TB: Cám ơn NT NQHoàng đã chuyển đọc bài viết của Trung Tướng NHCó dưới đây. 
Thân kính.    






Tin tức trích trên Yahoo Việt Nam
Ông Nguyễn Hữu Có, nguyên Phó thủ tướng kiêm Tổng trưởng quốc phòng Việt Nam Cộng hòa, tổng tham mưu trưởng quân lực Việt Nam Cộng hòa với cấp bậc Trung tướng (1965-1967), đã qua đời tại nhà riêng vào 11g38 ngày 3-7.



Từ trái sang: các ông Triệu Quốc Mạnh, Nguyễn Hữu Hạnh, Nguyễn Hữu Có và nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu trong buổi họp báo sáng 25-3-2005 gặp gỡ báo chí quốc tế nhân kỷ niệm 30 năm chiếm đóng miền Nam
Phóng viên nước ngoài phỏng vấn ông Nguyễn Hữu Có nhân kỷ niệm 30 chiếm đóng miền Nam - Ảnh: TTD


Ông Nguyễn Hữu Có (87 tuổi) quê ở Mỹ Tho (Tiền Giang).
Cùng với chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, ông Có đã có mặt bên cạnh ông Dương Văn Minh - tổng thống cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa - trong những thời khắc cuối cùng của Sài Gòn trước khi chuyển giao cho Cộng Sản Việt Nam
Ông Có được xem là một nhân vật có đời binh nghiệp khá đặc biệt và thăng trầm khi từng là sĩ quan trong cả quân đội Pháp và  Sài Gòn và dự phần vào nhiều biến cố quân sự tại miền Nam Việt Nam trước 1975.
Năm 1939, ông gia nhập lực lượng thiếu sinh quân Đông Dương và đến tháng 4-1946 gia nhập quân đội Pháp với cấp bậc Trung úy. Sau khi Quân lực Việt Nam Cộng hòa thành lập, ông tiếp tục giữ cấp bậc Trung tá và tham gia cuộc đảo chính anh em ông Ngô Đình Diệm vào tháng 11-1963.
Sau đảo chính, ông được phong thiếu tướng. Ông từng là nhân vật số 3 trong QLVNCH sau tướng Nguyễn Văn Thiệu và tướng Nguyễn Cao Kỳ với những chức vụ trên.
Giai đoạn năm 1967-1970, ông Có sang sống lưu vong tại Đài Loan sau khi bị tước hết mọi chức vụ khi đang đi công tác tại đây. Sau đó ông trở về Sài Gòn tham gia hoạt động ngân hàng.
Ông Nguyễn Hữu Có còn được coi là người thức thời  đã ủng hộ tướng Dương Văn Minh trở lại chính trường và ở bên cạnh ông Minh những ngày cuối cùng của Sài Gòn năm 1975.
Ông bà có 12 người con, hiện sống ở trong nước và nước ngoài.
Bà Nguyễn Thị Tín cho biết ông Nguyễn Hữu Có qua đời sau hơn 6 năm chống chọi với căn bệnh tiểu đường.
Cách nay hơn 10 ngày, sau khi đi lễ nhà thờ về ông Có trở mệt, được bác sĩ chẩn đoán là viêm họng. Sau đó bệnh tình trở nặng và được chuyển vào Bệnh viện Vạn Hạnh rồi Bệnh viện Chợ Rẫy.
Tuy nhiên, sức khỏe của ông Có ngày càng xấu, theo nguyện vọng của gia đình, ông Có được đưa về nhà và qua đời khi vừa về nhà.
Lễ tang Trung Tướng Nguyễn Hữu Có sẽ được tổ chức tại nhà riêng (số 42/3 Nguyễn Hữu Tiến, P.Tây Thạnh, Q.Tân Phú, TP.HCM), nơi từ nhiều năm nay thường tổ chức một bếp ăn tình thương giúp đỡ các bệnh nhân ở Bệnh viện Nhi Đồng 1 và Phạm Ngọc Thạch vào thứ sáu hằng tuần, do chị Ngọc Thu - con gái của vợ chồng ông Có - đảm nhận.
Lễ an táng Trung Tướng Nguyễn Hữu Có sẽ diễn ra vào 8 giờ sáng ngày 7 tháng 7 năm 2012 tại Công viên Nghĩa trang Bình Dương.





 Kính chuyển để tùy nghi.

Tôi không làm việc dưới quyền Trung Tướng Nguyễn Hữu Có nên không rõ về đời tư của Tr/Tg. Xuyên tạc, mạ lỵ, bôi bẩn người phe Ta là ngón nghề của cs đê phe Ta mất tin tưởng trong việc kiếm người lãnh đạo tổ chức chống lại chúng. Không có quân nhân cấp cao nào bên phe Ta mà không bị cs xuyên tạc, bôi bẩn. Những xuyên tạc như vậy chỉ nên đặt xuống mà ngồi lên trên và ...phóng uế vào đó.

Rất nhiều vi, rất nhiều người không biết rằng Hồ Chí Minh đã nói với thuộc cấp đại khái rằng "Các chú CỨ VIỆC hủ hoá những đừng lộ liễu để quần chúng bàn tán!"

Kính
TDT

Trung Tướng Nguyễn Hữu Có, sau 1975, bị CS đưa vào các trại tập trung ở miền Bắc như Hà Tây và Thanh Lâm (Thanh Hóa). Ở Thanh Lâm, ông được giam ở một biệt khu gồm 10 nhân vật cao cấp quân sự và hành chánh của VNCH
Tôi nhìn biết Đức Chúa Trời
Mùa hè 1977, tôi và ban tướng lãnh (31 người) đang ở trại 5 Yên Bái. Chúng tôi từ trại Quang Trung đã được chuyển ra đây bằng phi cơ từ mùa hè trước (1976). Ở đây chúng tôi phải lao động nặng nhọc. Mỗi tuần trừ những người đau yếu, chúng tôi phải lên núi đốn củi đem về đun. Hôm ấy trời nóng bức oi ả. Sau khi đốn xong 1 vác củi đúng chỉ tiêu (khoảng 25 Kg), tôi ngồi nghỉ mệt trên đồi dưới bóng mát, chờ anh em đốn xong để được lính canh đưa về trại một lượt. Tôi nhìn xem cảnh vật chung quanh. Trên cành cây có chim đang nhảy nhót. Từng đàn bướm lượn quanh khoe cánh với đủ màu sắc sặc sỡ. Trên trời từng đàn mây trắng bay với nền trời xanh trong trẻo. Các chú chuồn chuồn bay chập chờn như những chiếc trực thăng cực nhỏ. Bất giác tôi tự hỏi ai tạo ra vạn vật trong thiên nhiên. Chẳng lẽ mọi vật tự nó có và vũ trụ đặt ra qui luật phát triển và tồn tại ư? Từ suy nghĩ đó, tôi nhìn lên trời cao và nghỉ đến một Đấng mà thế gian gọi là Ông Trời hay là Thượng Đế. Tôi nghĩ phải có đấng tạo hoá dựng nên thế gian và mọi loài vạn vật. Với ý nghĩ đó tôi so sánh ông Trời với ông Phật. Người ta thường nói Trời mưa, Trời nắng, Trời gió, Trời lạnh, v.v. Còn ông Phật thì không được gọi như thế. Sau chuyến đi lấy củi hôm ấy, tôi có một nhận thức mới. Đó là điểm khởi đầu nhìn biết Đức Chúa Trời. Từ đấy tôi nhìn và lối suy nghĩ khác hẳn trước. Đối với hoạn nạn tôi đã trải qua tôi không qui cho số phận may rủi nữa. Tôi nghĩ rằng Đức Chúa Trời là Đấng dựng nên tôi ắt có quyền trên đời sống tôi. Mọi việc xảy ra trong đời tôi đều do ơn Ngài quyết định.

Chúa làm phép lạ trong gia đình tôi
Ngài cứu con trai tôi
Gia đình tôi có 12 người con, 4 trai, 8 gái. Chúng tôi rất khổ tâm khi có đứa con trai hư đốn nghiện ngập xì ke. Đó là đứa con trai thứ nhì Nguyễn Hữu Trung, sinh năm 1955. Trung đã nghiện ngập xì ke trước ngày mất miền Nam. Sau năm 1975, gia đình túng thiếu, cuộc sống chật vật, nhưng Trung vẫn tìm mọi cách moi tiền đi hút. Gia đình có gởi Trung vào Trường Phục Hồi nhân phẩm cải tạo xì ke, ma tuý, và gái điếm) ở Bình Triệu. Được một thời gian, trường cho về nhà nhưng Trung vẫn không bỏ được xì ke. Đến tháng 08-1979, Trung bị nghiện nặng bỏ nhà ra đi một thời gian. Vì thiếu tiền, thiếu thuốc, Trung bị cơn nghiền dày vò hành hạ nên trở về nhà. Hai hôm sau Trung lên cơn sốt nặng, người gầy yếu chỉ còn da bọc xương (Trung cao 1m72 chỉ còn có 28Kg). Gia đình chở Trung lên bệnh biện Nguyễn Văn Học (Gia Định) lúc chiều. Các bác sĩ khám cho Trung, lúc ấy Trung đã hôn mê nằm như người gần chết. Bác sĩ thử tủy cột sống, Trung không còn tủy nữa . Các bác sĩ cho biết Trung không thể nào sống được tới 12 giờ đêm, và khuyên gia đình nên chuẩn bị mai táng. Hôm đó nhằm ngày thứ bảy. Gia đình tôi đã có vài đứa con tin Chúa (2 con gái Nguyễn thị Ngọc Thu, Nguyễn thị Thanh Loan , và Nguyễn thị Minh Trang là vợ Trung).

Tối hôm ấy, chúng nó đi nhóm nhà thờ Tin Lành Trần Cao Vân và xin Mục Sư Hồ Hiếu Hạ dâng lời cầu nguyện xin Chúa chữa bệnh cho Trung. Cả Hội Thánh cầu nguyện. Tan buổi nhóm, Mục sư Hạ và một số thanh niên đến nhà chúng tôi cầu nguyện cho Trung đến 11 giờ đêm. Nhưng vợ tôi vẫn chuẩn bị mọi việc để mai táng Trung. Ngày hôm sau, trời vừa mờ sáng, Ngọc Thu đã đến bệnh viện. Vì có lời dặn của bác sĩ hôm trước, nên Thu đi thẳng xuống nhà xác, không có xác Trung ở đây. Thu hơi mừng, đi gấp lên phòng bệnh chổ Trung nằm, vừa đi vừa cầu nguyện Chúa. Đến nơi Thu rất đổi ngạc nhiên thấy Trung đã tỉnh táo, đòi ăn cháo. Các bác sĩ cũng ngạc nhiên nói chỉ có phép lạ Trung mới sống được như thế. Sau một tuần nằm điều trị ở bệnh viện, Trung hầu như hồi phục và được xuất viện.

Chúa chữa bệnh phổi cho Trung
Về nhà được ít lâu, Trung bị bệnh lại, đó là bệnh phổi tái phát, vì năm 1973 lúc Trung còn học tại trường Hạ Sĩ quan Nha Trang, có lần đã nằm viện giải phẩu lấy mủ ở phổi. Ngọc Thu đưa Trung vào bệnh viện Hồng Bàng trong Chợ Lớn trị lao. Nơi đây sau khi chụp hình phổi, thử máu, thử đàm bác sĩ cho biết Trung đã bị lủng phổi rất nặng, phải chịu nằm viện và cách ly với vợ con. Tạm thời Trung phải trở về nhà đợi một tuần vì bệnh viện chưa có chổ nằm. Cả gia đình cầu nguyện Chúa thương xót chữa lành cho Trung một lần nữa. Tuần sau, Trung trở lại bệnh viện để làm thủ tục nhập viện. Bác sĩ cho chụp hình trở lại. Rất kỳ lạ là hai lá phổi đều tốt hoàn toàn. Các kết quả khác đều cho kết quả tốt. Các bác sĩ đều ngạc nhiên về trường hợp nầy. Một lần nữa Đức Chúa trời đã chữa lành cho Trung, để qua đó cả gia đình đều đến với Ngài. Halêlugia, cảm tạ Chúa!

Ghi chú : sau sự việc nầy vợ Trung là Minh Trang được người cô ở Pháp giúp đở mua nhà ở riêng và làm ăn phát đạt. Hiện vợ chồng Trung có đứa con gái xinh đẹp và rất hạnh phúc. Nguyền xin Chúa ban ơn gìn giử gia đình Trung để chúng nó đứng vững trong đức tin mà theo Ngài.

Chúa chữa lành bệnh khó cho vợ tôi
Đầu năm 1983, vợ tôi bị bệnh tiểu đường, nước tiểu trắng đục như vôi. Nhà tôi nhờ bác sĩ Nguyễn Sào Trung chữa trị. Bệnh không thuyên giảm. Bác sĩ Trung đề nghị vợ tôi đi xét nghiệm và hội chẩn của các bác sĩ. Thạc sĩ Ngô Gia Hy cho biết vợ tôi bị một chứng bệnh kỳ lạ, hàng triệu người bệnh mới có trường hợp như vậy. Có một loại giun chỉ ở trong thận, dùng thuốc không thể trục chúng ra được, mà giải phẩu mới mong cứu sống vợ tôi. Nhưng giải phẫu cũng không chắc thành công vì bệnh viện thiếu phương tiện. Hơn nữa, vợ tôi sức khoẻ sa sút khó có thể chịu nổi cuộc giải phẩu kéo dài những 7 tiếng đồng hồ. Thạc sĩ Ngô Gia Hy đề nghị vợ tôi xin đi nước ngoài để chữa trị mới có hy vọng được cứu sống. Đề nghị nầy thực khó thực hiện vì gia đình không có tiền, ngoài ra thủ tục xin xuất ngoại chữa bệnh cũng khó khăn. Trong cảnh tuyệt vọng, gia đình tôi chỉ còn có một con đường là mọi người hết lòng cầu nguyện, nài xin Chúa thương xót vợ tôi. Lúc nầy Hội Thánh Trần Cao Vân đã bị nhà nước tịch thu và ngưng hoạt động, còn Mục sư Hồ Hiếu Hạ và các tôi tớ Chúa ở đây đã bị bắt giữ. Gia đình chuyển qua sinh hoạt tại một nhà thờ Tin Lành cách nhà chúng tôi vài trăm thước. Mục sư Lê Quốc Chánh, Chủ tọa Hội Thánh, đặt tay lên người vợ tôi cầu nguyện xin Chúa chữa lành cho. Vợ tôi kiêng ăn cầu nguyện. Cả gia đình cũng hết lòng cầu nguyện. Vài ngày sau, vợ tôi đi ngoài và phát hiện một con giun đủa lớn kéo theo một chùm giun nhỏ cứ theo ra ngoài. Vợ tôi lấy cả đám giun đem đến bệnh viện Bình Dân xét nghiệm. Thạc sĩ Ngô Gia Hy xác nhận đây chính là giun chỉ ở thận của vợ tôi. Ông rất ngạc nhiên không hiểu tại sao giun lại theo đường tiêu hoá ra ngoài. Chúa cho phép bệnh tật xảy ra, thì cũng có cách chữa lành bệnh. Không việc gì Chúa không làm được vì Ngài là Đấng Toàn Năng, Toàn Tri. Halelugia, cảm tạ Chúa.

Chúa mở đường cho tôi đến với Ngài
Đầu năm 1979 do tình hình chiến sự bộc phát ở biên giới Tây Bắc Việt Nam do Trung Quốc gây ra nên các trại cải tạo ở gần biên giới phía Bắc được di tản đưa về nhập với các trại phía Nam xa biên giới. Tập thể tướng lãnh chúng tôi đang ở trại Hà Tây (cách Hà Nội 25Km về phía Tây) cũng được phát tán qua các trại khác. Tôi và các tướng Lê Minh Đạo, Lý Tòng Bá và Phạm Ngọc Sang được chuyển về trại Nam Hà (Phía Tây Phủ Lý 30Km). Đến giữa tháng 04 năm 1979, thình lình tôi được lệnh tha cùng một lúc với bảy anh em khác ở trại. Anh em bàn tán xôn xao cho rằng tôi được lệnh tha là do nhu cầu chính trị, để tuyên truyền cho chính sách khoan hồng nhân đạo của chính phủ. Rồi sau đó tôi được đưa về trại Hà Tây. Nơi đây cũng có có anh em khác từ các trại cải tạo ở Thanh Hoá đưa về. Tất cả chúng tôi là 13 người, được hưởng chế độ ăn uống bồi dưỡng và được đi tham quan Hà Nội, có vẻ như sắp được cho về với gia đình. Thủ tục nầy được áp dụng từ trước đến nay như một thông lệ. Sau hơn một tuần lễ sống trong tâm trạng hồ hởi, phấn khởi, chúng tôi được lệnh tập trung lên phòng họp của trại để nghe cấp trên nói chuyện. Chúng tôi mừng hụt vì không phải được thả về mà để nghe động viên giải tinh thần buộc đi vào Thanh Hoá nghiên cứu thành lập một nông trường cho Bộ Nội Vụ (Cục cải tạo). Trước vẻ mặt tiu nghỉu của chúng tôi, trại hứa hẹn chỉ đi vài tháng thôi "rồi cho các anh về". Về sau tôi nghe các anh em kể lại: khi chúng tôi vào Thanh Hoá, và nói rằng tôi được cử làm giám đốc nông trường ở Thanh Hoá, (tôi còn là tù nhân thì làm sao làm giám đốc được!). Tin nầy làm cho anh em phẫn nộ và có ác cảm với tôi. Đây là lần thứ hai tôi bị tai tiếng. Lần trước tai tiếng đã từng xảy ra khi miền Nam bị mất, ở đâu người ta cũng đồn tôi là Thượng tá Việt Cộng. Xin Chúa chứng giám và biện minh cho con. A-Men!

Tôi vào Thanh Lâm (Thanh Hoá) gần hai năm. Đến giữa năm 1981, tôi được trở về trại Hà Tây để bị giam chung với các tướng lãnh. Ai cũng chê tôi gầy và đen quá.

Trong hai năm 1980-1981, trại Thanh Lâm bị bão lụt tàn phá nhiều lần, thiên tai gây tốn kếm rất nhiều hoa màu, cây cối bị thiệt hại nhiều lần làm cho nông trường bị giải thể, các trại viên được chuyển về nam ở trại Hàm Tân. Thời gian ở Thanh Lâm, gia đình tôi chỉ gởi quà tiếp tế chớ không ra thăm nuôi vì đường đi khó khăn trắc trở. Về đến Hà Tây thì có người nhà tôi ra thăm (sui gia và con gái). Ngoài quà cáp, tôi còn nhận được một quyển Kinh Thánh toàn bộ. Tôi phải cất giấu mới đem được vào trại. Ở trang đầu quyễn Kinh Thánh, Mục sư Hồ Hiếu Hạ có ghi tặng tôi câu Kinh Thánh ở Thi Thiên 119:105: " Lời Chúa là ngọn đèn cho chân bác ... là ánh sáng cho đường lối bác ... ... "

Lúc bấy giờ Chúa đã làm cho tôi hai việc: (1) Chúa trang bị cho tôi hành trang tâm linh để cho tôi để cho tôi đọc hàng ngày dọn mình đến với Chúa. (2) Chúa an bài sắp xếp cho tôi ở chung với một số con cái Chúa.

Thật lạ lùng khi tôi nghĩ ra điều nầy. Tôi được giam ở buồng 4 có cửa thông qua buồng 3, nơi đây có ba Cơ Đốc Nhân là các tướng Lê Trung Trực, Đoàn Văn Quảng, và Nguyễn Chấn Á.

Chịu Báp Têm 
Cuối tháng 3/1983, toàn trại Hà Tây được chuyển về trại Nam Hà. Các tướng lãnh được tập trung ở một dãy buồng lớn. Tôi rất vui mừng là trại nầy có giam Mục sư Tuyên uý Tin Lành và một Mục sư dân sự (Mục sư Điểu Huynh).

Ngày Chủ Nhựt 20 tháng 3 năm 1983 là ngày đáng ghi nhớ trong đời tôi. Sáng hôm ấy, sau khi tập hợp điểm danh trước buồng, đáng lẽ người cán bộ phụ trách khoá cửa vòng ngoài cửa buồng như thường lệ, thì anh ta lại quên khoá cửa. Chế độ giam giử cấp tướng là biệt giam. Chúng tôi không được ra ngoài liên hệ với buồng khác. Sau khi thấy được việc quên không khoá cửa, các anh em Cơ Đốc Nhân chúng tôi bàn với nhau nên lén lút thoát ra ngoài tìm chổ nhóm họp của các Mục sư. Sau khi đồng ý, chúng tôi hé cửa thoát ra ngoài hỏi thăm chổ nhóm của các Mục sư rồi đến ngay nơi ấy.

Chúng tôi vào buồng 11 leo lên trên (chổ ngủ phía dưới là bệ xi măng, còn phía trên là sạp ván). Đang nhóm họp tại đây có các Mục sư Dương Kỳ, Nguyễn Văn Nghi, Võ Xuân và một số tín hữu ở buồng khác đến. Chúng tôi tham gia thờ phượng Chúa và nghe Mục sư Dương Kỳ giảng. Xong bài giảng tôi ngỏ ý xin Mục sư Dương Kỳ làm phép Báp têm cho tôi vì nếu bỏ lỡ cơ hội nầy, khó có thể có dịp khác. Được Chúa cảm động Mục sư Dương Kỳ chấp thuận ngay. Thế là tôi được làm phép Báp têm bằng nước trong bi-đông tưới lên đầu. Tôi cảm động đến rơi lệ vì tình thương của Chúa đã cứu chuộc tôi, Chúa đã rữa sạch tội lỗi cho tôi. Kẻ từ hôm ấy, tôi được địa vị làm con cái Ngài và được gọi Ngài là Cha Thiên Thượng. Rõ ràng Ngài đã dọn đường cho tôi đến với Chúa theo cách Ngài muốn. Vì tôi là cựu Tổng trưởng Quốc phòng nên tôi nghỉ Chúa muốn chính Mục sư Dương Kỳ, Đại tá Tuyên Uý Trưởng ngành tuyên uý quân đội, làm lể Báp têm cho tôi. Nghi thức nầy được thực hiện ngay trong chốn lao tù, nơi tôi bị giam giữ.

Sau khi tin Chúa
Những thay đổi bước đầu 
Sau khi tin Chúa, tôi cảm thấy vui mừng trong nội tâm. Vui mừng vì tất cả tội lỗi của mình trong quá khứ đã được Chúa tha thứ tẩy sạch. Đó là một gánh nặng mà tôi phải mang cho đến chết nếu không được Chúa cứu. Lời Chúa trong Kinh Thánh còn hứa chắc chắn rằng Ngài dành cho tôi một chổ ở trên Thiên Đàng khi linh hồn tôi rời bỏ trần thế nầy. Trước đây khi còn thờ hình tượng, không có đấng nào dám hứa với tôi như thế. Tôi quyết tâm ăn năn tội lỗi, sống một cuộc sống mới, thanh sạch gương mẫu. Tôi tuyệt nhiên không hút thuốc lá, uống rượu, cờ bạc là những điều dể vấp phạm trong hoàn cảnh buồn khổ ở trại giam. Được lời Chúa dạy dỗ, nhắc nhở hằng ngày, tôi sống vui vẻ và hạnh phúc hơn, được tình thương yêu lớn lao của Chúa bao bọc, tôi nhìn bạn bè xung quanh tôi với sự yêu thương chân thật. Tôi luôn luôn tìm cách giúp đở bạn bè trong các công việc lặt vặt như vá quần áo, sữa chữa đồ dùng (tôi được anh em khen là khéo tay). Tôi tích cực chia sẻ công việc khó khăn, nặng nhọc ở buồng như vét giếng, sửa nhà v.v. Đối với bạn bè nóng tính, tôi luôn luôn nhường nhịn và sẵn sàng tha thứ mỗi khi bị xúc phạm. Tôi sẵn sàng chia sẻ những gì tôi có cho bạn bè thiếu thốn từ thức ăn, thuốc uống cho đến các nhu cầu khác.

Chúa sống trong tôi 
Những sự thay đổi trong người tôi, không phải do tôi giỏi, đức độ, siêng năng của tôi, bèn là Chúa sống trong tôi. Chúa đã giệt cái bản ngã thấp hèn của tôi rồi. Tôi xin mượn lời Vua Đa-vít chép trong Thi Thiên 51: 9-10 để diễn tả tâm tình của tôi: "Xin Chúa ngoảnh mặt khỏi các tội lỗi tôi, và xoá hết thảy các sự gian ác tôi, Đức Chúa Trời tôi ơi! Xin hãy dựng nên trong tôi một lòng trong sạch và làm mới lại trong tôi mắt thần linh ngay thẳng".

Tôi nghĩ lại quá khứ, không còn tin nơi tướng số, vận may. Lớn lên trong đức tin và sâu nhiệm lời Chú, tôi thấy rõ ràng tình thương của Chúa đến với con người bằng cửa hoạn nạn. Thật vậy, không có hoạn nạn chắc tôi chưa tìm gặp Chúa và được Chúa cứu. So sánh cái "được" và cái "mất " từ năm 1975 đến ngày tôi tin Chúa: tôi mất tất cả tài sản, địa vị, danh vọng, hạnh phúc, tự do, v.v. Nhưng đổi lại tôi có Chúa, có Đấng Quyền Năng, Hằng Hữu che chở dẫn dắt, ban cho. Chẳng những ban cho trong đời nầy mà cho cả đời sau nữa. Cái được của tôi thật vô cùng lớn lao. Con xin cảm tạ ơn Chúa!

Ơn phước Chúa đầy dẫy
Ơn nhóm lại thờ phượng
Mục sư Dương Kỳ cắt cử Mục sư Võ Ngọc Thiên Lộc phụ trách chăn giử nhóm tín hữu buồng 3 của chúng tôi. Tôi rất quý mến Mục sư Lộc, người còn trẻ chưa lập gia đình, tánh tình cởi mở, rộng rải, hào phóng. Mục sư Lộc rất được ơn trước mặt Chúa. Hằng tuần đều cố gắng trèo rào vô buồng nhóm họp thờ phượng rao giảng Lời Chúa cho chúng tôi.

Một điều lạ lùng ngoài sức tưởng của tôi là Chúa đã gìn giử, che chở cho chúng tôi được bình an trong suốt 229 tuần lể kể từ ngày tôi tiếp nhận Chúa đến ngày tôi được tha về với gia đình (2-9-1987). Bình thường, mọi sự xuất nhập ở buồng 3 chỉ trong khoảng khắc là được hệ thống báo cáo viên đặt ở các buồng chung quanh chúng tôi trình lên cán bộ ngay. Điễn hình là đã có 4 anh em tướng lãnh vừa ra khỏi buồng 3 để liên hệ với bạn bè thì bị cán bộ trực trại xuống tập họp điểm danh làm kiểm điểm ngay. Đó là các tướng Trần Bá Di, Hồ Trung Hậu, Lam Sơn, Trần văn Cẫm. Thế nhưng trong suốt 229 tuần lễ, Mục sư ra vào buồng sinh hoạt tôn giáo với anh em Cơ Đốc Nhân chúng tôi thì được Chúa che chở bình an vô sự.

Chúa tiếp trợ lương thực 
Giữa năm 1984, hai vị cựu tuyên uý là Mục sư Nguyễn Văn Nghi và Mục sư Võ Xuân được Chúa cảm động lén trèo rào vào thăm chúng tôi. Bốn anh em chúng tôi, các tướng lãnh đã tin Chúa rất vui mừng vì chúng tôi rất khao khát muốn được nghe lời Chúa qua các vị Mục sư.

Chúng tôi cố giữ mời hai Mục sư ở lại dùng cơm trưa với chúng tôi. Khi được hai vị đồng ý, anh Trực bàn với tôi để anh và anh Quảng cùng cụ Á tiếp Mục sư còn tôi lo nấu cơm. Tôi hơi bối rối vì thiếu chuẩn bị, món mặn thì có cá khô và lạp xưởng tạm được, nhưng thiếu món canh vì thiếu rau tươi. Tôi cuối đầu cầu nguyện xin Chúa tiếp trợ cho chúng tôi. Cầu nguyện xong tôi đi xuống bếp thì thấy tướng Lý Tòng Bá đang ôm trên tay một bó bạc hà vừa mới nhổ ở luống rau của anh. Tôi mừng quá gọi anh Bá lại và ngỏ ý xin. Anh Bá sẳn sàng cho tôi hết bó rau. Anh nói tự nhiên sáng nay anh có ý nhổ bỏ bạc hà để dọn đất trồng rau khác và anh "không có nhu cầu" dùng rau bạc hà. Trong bữa cơm trưa, tôi nói cho hai vị Mục sư biết món canh chua bạc hà là do Chúa tiếp trợ. Chúng tôi cúi đầu cầu nguyện cảm tạ Chúa.

Được che chở nhờ đức tin 

Giữa năm 1985, nhà tôi ra trại Nam Hà thăm nuôi. Tôi được tin nầy từ chiều hôm trước và chuẩn bị sáng hôm sau ra gặp vợ. Tối hôm ấy, một số anh em ngỏ ý xin tôi cho gửi thư về nhà. Đây là loại thư mang tay viết ngắn gọn để xin thuốc men, lương thực. Việc làm nầy đầy rủi ro bất trắc. Nếu ra cổng trại bị khám xét có thư trong người thì sẻ bị đuổi trở vô, không cho ra gặp người thân. Thật ra nếu tôi từ chối thì anh em cũng thông cảm thôi, nhưng tôi cậy ơn Chúa che chở, bảo anh em cứ viết cho thật ngắn gọn, sáng mai sẽ tùy cơ ứng biến. Tôi cầu nguyện xin Chúa giúp đở, che chở cho tôi mang thư ra được bình an. Tôi cảm thấy lòng nhẹ nhàng, bình an, tin quyết nơi Chúa.

Sáng hôm sao tôi nhận 12 lá thư xếp nhỏ gọn đễ dể mang ra trại. Thay vì cất giấu trong người, tôi nghỉ ra một cách là cầm gọn trong tay trái, nếu cán bộ bắt giử thì có cớ nói mang ra công khai để xin phép cán bộ chớ không có ý gian. Với ý nghĩ đó, tôi mạnh dạn bước ra cổng trại theo các anh em đi thăm nuôi. Hôm đó trời mưa lấm tấm, tôi mang theo áo mưa khoác ở tay trái. Khi đến trước mặt cán bộ trực trại, anh ta hỏi: "Anh có mang theo thư từ gì ra ngoài không?" Tôi không dám nói dối, vì nói dối là vấp phạm. Tôi bình tĩnh trả lời, xin cán bộ cứ khám xét người tôi, vừa nói tôi vừa giơ hai tay lên cao đưa người cho anh ta khám. Anh ta nhìn vào mắt tôi để dò xét rồi sờ mó qua người tôi từ trên xuống dưới, xong bảo tôi đi. Qua khỏi chổ đó, tôi hết sức vui mừng cảm tạ ơn Chúa. Lòng tôi nhẹ nhõm, lâng lâng hạnh phúc vì sắp gặp lại vợ, lại sung sướng làm xong nhiệm vụ đối với anh em trong buồng giam.

Sự qua đời của một con cái Chúa
Giữa mùa đông năm 1985, vào tháng Ba, trời trở rét đậm, cả ngày trời âm u ảm đạm. Cuộc sống nơi buồng 3 (giam cấp tướng) trong những ngày nầy bớt sinh động so với những ngày đầy nắng ấm. Ai cũng thích ngồi gần bếp lửa để sưởi ấm. Bốn anh em Cơ Đốc Nhân chúng tôi (Đoàn văn Quảng, Nguyễn Chấn Á, Lê Trung Trực, Nguyễn Hữu Có) đang quan tâm đến 2 vấn đề: ấy là chị Quảng đang trên đường ra thăm anh và việc tổ chức buổi nhóm thờ phượng cuối tuần.

Khác với tuần lễ trước, tuần nầy Mục sư Võ Ngọc Thiên Lộc cho biết ông gặp trở ngại không vào được buồng 3 vì cán bộ của trại dường như theo dõi ông. Tuy nhiên sáng thứ 7 khoảng 11 giờ, ông đến gần tường rào chổ gần giếng nước cho hay là ông sẽ vào buồng chúng tôi sau 12 giờ trưa và sẽ nhóm trong phòng ăn của buồng, khác với lần khác nhóm tại bếp nấu ăn của tôi hoặc của anh Trực. Ông thận trọng thay đổi chổ nhóm để được an toàn hơn.

Bắt đầu buổi nhóm, Mục sư Lộc cho biết tuần nầy ông đã soạn xong bài giảng, nhưng Chúa ngăn trở không cho vào buồng 3. Sau khi cầu nguyện với Chúa nhiều lần, Đức Thánh Linh cảm dộng ông giảng về đề tài khác: về cái chết đối với Cơ Đốc Nhân. Mặc dù thời gian đã qua lâu rồi, nhưng tôi vẫn còn nhớ nội dung bài giảng. Đây là những ý chính: Đức Chúa Trời là Đấng tạo dựng nên con người (Ma-la-chi 2: 10a), Ngài ban cho con người sự sống và cuộc sống (Phục truyền luật lệ ký 30:15) Ngài là Đấng quyền năng (Thi-Thiên 62:11) Ngài có quyền ban cho và con quyền cất đi sự sống của con người bất cứ lúc nào (Gióp 1:21). Con người trên thế gian không ai tránh khỏi sự chết, cái chết không phân biệt tuổi tác, không phân biệt sang hèn. Con người ai cũng sợ chết, nhưng không ai tránh khỏi nó. Hoặc sớm, hoặc muộn con người đều phải chết (Truyền đạo 9:3-5). Người ngoại đạo quan niệm chết là hết. Nhưng đối với Cơ Đốc Nhân chúng ta có sự trông cậy về đời sau, chết là lìa bỏ thế gian tạm bợ nầy để bước vào cuộc sống đời đời. Thân xác chúng ta được Chúa dựng nên bằng bụi đất, sẽ trở về với các bụi trong lòng đất. Nhưng linh hồn chúng ta được Chúa cứu chuộc sẽ về với Ngài nơi Thiên Quốc (Truyền đạo 12:7). Chúng ta không sợ cái chết, nhưng chúng ta luôn luôn có sự bình an vui mừng. Mục sư Lộc kết thúc bài giảng và mời anh Quảng cầu nguyện, anh cầu nguyện ngắn gọn như sau: "Chúa ơi, chúng con hết lòng cảm tạ Chúa vì cho chúng con nhóm lại thờ phượng Ngài và nghe lời Ngài dạy dỗ, nhắc nhở, yên ủi chúng con. Con luôn luôn vững vàng đặt trọn niềm tin nơi Chúa. Con sẵn sàng về với Chúa bất cứ khi nào Chúa gọi con."

Ngày thứ 2 đầu tuần lể, sinh hoạt ở buồng 3 như thường lệ. Trong khuôn viên giữa 4 bức tường rào quen thuộc vẫn là: tập thể thao, nấu ăn, tắm giặt, nghĩ ngơi, đọc sách, v.v.

Buổi chiều sau giờ nghĩ trưa, tôi đang ngồi chơi ngoài sân thì anh Quảng qua chỗ tôi ngồi, anh đùa giỡn với tôi và phấn khởi nói với tôi chị Quảng sắp ra thăm anh rồi. Sau đó anh về phòng. Chỉ vài phút sau, anh em trong phòng nhốn nháo la to lên: anh Quảng bị ngất xỉu mau gọi cấp cứu. Tôi chạy nhanh vào phòng đến chổ anh Quảng nằm, thì thấy anh đang nhắm mắt, tim không còn đập, hơi thở cũng không còn nữa, chúng tôi vừa xoa dầu, thoa bóp chân tay anh, vừa làm hô hấp nhân tạo. Chúng tôi vừa làm vừa theo dõi mong có được một dấu hiệu hồi sinh. Nhưng dần dần chúng tôi tuyệt vọng vì anh vẫn nằm bất động. Kế đó, buồng 3 tràn ngập đầy người: Bác sĩ, ý tá, cán bộ của trại, bạn bè ở các buồng khác. Nhưng tất cả đều thất bại. Anh Quảng đã vĩnh viễn ra đi. Chiều thứ 3 tức ngày hôm sau, lúc 4 giờ chiều anh Quảng được nhập quan trước sự chứng kiến của vài người, trong số đó có Mục sư Tín, Mục sư Lộc, anh Lê Trung Trực và tôi. Sáu tấm ván gổ thường được đóng sơ sài là linh cữu của anh Quảng, được đưa ra ngoài trại bằng cửa hậu để tránh sự tò mò của các tù nhân. Chúng tôi chỉ được phép đưa anh Quảng ra khỏi cổng trại, sau đó một toán tù thường phạm khiêng linh cửu đi theo đường mòn vòng ra phía sau núi và được chôn một cách lặng lẽ trong buổi hoàng hôn u buồn. Trời đã sẫm tối, sương mù bắt đầu rơi xuống. Chúng tôi lủi thủi trở về buồng giam, lòng nặng trĩu.

Hai hôm sau, tức ngày thứ 5, chị Quảng và người con út đến trại. Anh Vũ Văn Giai và tôi được phép đến nhà thăm nuôi gặp chị Quảng. Chúng tôi thuật lại sự ra đi của anh Quảng, yên ủi chị trong nước mắt và trao cho chị di sãn hiếm hoi của anh Quảng trước khi chị ra về.

Kỹ niệm đau buồn trên đây, tôi hằng nhớ mãi. Những việc lạ lùng mà Đức Chúa Trời đã làm khiến cho mắt tôi thấy được sự hiện diện của Ngài trong mỗi giây phút cuộc đời tôi. Thật Ngài là Đấng Toàn Tri, việc gì chưa xãy ra thì Ngài đã biết trước.

Với tình yêu thương lớn lao, Ngài đã tiên liệu và chuẫn bị cho sự ra đi của anh Quảng được nhẹ nhàng, bình an. Qua bài giảng của Mục sư Lộc, lời của Ngài đã nhắc nhở, yên ủi anh Quảng trước khi về với Ngài.

Ngài đã cảm động Mục sư Lộc mời anh Quảng cầu nguyện, rõ ràng đó là lời kêu gọi anh Quảng về với Ngài và anh Quảng đã tuyệt đối vâng phục, sẵn sàng ra đi không do dự, không sợ hãi. Ngài cũng giục lòng đưa đường chị Quảng và người con trai út ra đến trại đúng lúc để viếng phần mộ anh Quảng.

Đức Chúa Trời là Đấng quyền năng không việc gì mà Ngài không làm được. Ngài có quyền trên sự sống và sự chết của con người.

Qua sự việc anh Quãng mà tôi đã chứng kiến, tôi càng vững tiến niềm tin nơi Chúa, hết lòng tôn thờ và vâng phục theo Ngài. A-Men

Thưa các bạn đọc thân mến,

Sau khi đọc xong bài làm chứng nầy, nếu lòng các bạn thấy cãm động muốn tin nhận Đức Chúa Jesus Christ làm cứu Chúa của mình, tôi khẩn thiết nài xin các bạn hãy quyết định ngay để tội lỗi các bạn được tha, linh hồn các bạn được cứu rỗi, đời sống các bạn được Chúa biến đổi.

Xin mời các bạn đến bất cứ Hội Thánh Tin Lành Việt Nam nào gần nơi bạn cư trú để được hướng dẫn tiếp nhận Chúa.

Nguyễn Hữu Có



Nguyễn Hữu Có (c. 1925 – 3 July 2012) served in the Army of the Republic of Vietnam, rising to the rank of Brigadier General. He was prominent in several coups and juntas in the 1960s.
In 1963, Có came to prominence for his role in the November coup that deposed Vietnam's president, Ngô Đình Diệm, who was assassinated. Có's superior, General Tôn Thất Đính, moved him into command of the 7th Division to lock loyalist forces out of Saigon. Có was promoted to Brigadier General after the coup, and as South Vietnam was inflicted with a cycle of coups over the next two years, he became more prominent as other generals defeated one another in power struggles.[citation needed]
By 1965, Có was the Deputy Prime Minister and Defense Minister in a junta headed by Prime Minister and Air Marshal Nguyễn Cao Kỳ and General Nguyễn Văn Thiệu, the figurehead chief of state. Có came under increasing scrutiny for his exorbitant wealth and was widely seen as corrupt, while Kỳ viewed him as a political threat. In 1967 Kỳ fired Có when both men were overseas on diplomatic visits. Kỳ then organized military forces to prevent Có from flying back, effectively sending him into exile. Over time, Thiệu began to eclipse Kỳ in a power struggle, and allowed Có to return in 1970. Có then stayed out of public life, and worked in banking and business. In 1975, the communists overran the south, and after hesitating in planning his escape from South Vietnam, Có was captured by the communists, who imprisoned him in reeducation camps for 12 years. Có elected not to emigrate after being released and lived in Vietnam until his death in 2012.



Nguyễn Hữu Có


   Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

       

Tướng Có kể về cuộc đời sự nghiệp
Lữ Giang
(Phần I)
Theo tin của báo Tuổi Trẻ online ở trong nước ngày 4.7.2012, Trung Tướng Nguyễn Hữu Có, người đã tham gia vào nhiều biến cố và giữ nhiều chức vụ quan trọng dưới thời VNCH, đã qua đời ở trong nước ngày 3.7.2012 tại Sài Gòn, hưởng thọ 87 tuổi.
Một số người đã hỏi tôi một số vấn đề liên quan đến Tướng Nguyễn Hữu Có. Tôi có biết nhiều chuyện về ông, nhưng tôi nghĩ rằng trong lúc này điều tốt hơn cả là nghe chính ông kể lại cuộc đời của mình trong bài “Gặp Chúa trong tù cải tạo” đăng trên website tinlanhhyvong.com. Vì bài này khá dài, chúng tôi sẽ cho phổ biến trong ba kỳ.
GẶP CHÚA TRONG TÙ CẢI TẠO
Tác giả: Trung Tướng Nguyễn Hữu Có
(Phần I)
Thân Thế và Sự Nghiệp
Từ thuở nhỏ cho đến lúc trưởng thành, tôi không theo một tôn giáo nào cả. Gia đình tôi chỉ thờ cúng ông bà.Năm 1958, tôi đã được 15 năm trong binh nghiệp. Với cấp bậc Đại tá tôi giữ chức vụ Tư Lệnh Quân khu I, gồm 9 tỉnh miền Đông Nam bộ. Lúc đó các thầy tướng số và các nhà sư khuyên tôi nên lập trang thờ các vị thần hộ mệnh. Tôi tin vào lời khuyên và bắt đầu thờ Ông (Quan Công - Lưu Bị - Trương Phi), Đức Phật Thích Ca và Phật Bà Quan Âm. Mặc dù thờ Phật, nhưng tôi không hề đi chùa, không đọc kinh Phật, nên chẳng hiểu biết giáo lý Phật giáo. Sự thờ phượng của tôi chỉ với mục đích bảo hộ bản thân. Vì bận công việc hằng ngày, tôi không có thời giờ tìm hiểu các vấn đề cơ bản trong Phật giáo, nhất là sự ăn năn, sự tha tội, và sự cứu rỗi linh hồn.
Cuối năm 1963, tôi được vinh thăng Thiếu tướng vì có công trong cuộc đảo chính lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm. Cuộc đời binh nghiệp của tôi từ đây có những bước tiến vọt đáng kể:
· 1964-1965: Làm Tư Lệnh Quân đoàn IV, rồi làm Tư Lệnh Quân đoàn III.
· 1965-1966: Tổng tham mưu trưởng quân lực Việt Nam Cộng Hoà - Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng.
Địa vị tôi càng cao càng vững vàng tôi càng tin nơi các đấng hộ mệnh. Tôi biệt riêng ra một phòng ở tư thất, dành cho việc thờ cúng. Tôi cũng thờ thêm nhiều vị Phật khác như: Phật Di Lặc, Phật Bà Chúa Xứ, Phật Đầu Xà (Thái Lan), các Thần Tài, Thổ Địa, v.v. Tôi chi tiền rộng rãi mua sắm hương đèn, hoa quả, còn việc thờ cúng thì giao cho quản gia và người chị vợ trách nhiệm mỗi đêm thắp hương, niệm Phật. Các vị thượng khách khi đến Việt Nam, biết tôi mộ đạo (dù chỉ bằng hình thức), đã tặng tôi nhiều tượng Phật quí thỉnh từ các Chùa ở Lào, Thái Lan và Miên. Tôi cũng đeo trong người hàng chục tượng Phật nhỏ bằng vàng, ngà voi , đá quí do nhiều người gởi tặng, để lúc nào tôi cũng được che chở hộ mạng. Gia đình tôi quan niệm rằng nếu muốn cho linh hồn mình được cứu rỗi trong đời sau thì đời nầy phải lo đạo đức, làm lành lánh dữ, dâng hiến cho các chùa và làm công tác từ thiện.
Đời binh nghiệp và chính trị của tôi lên đến tột đỉnh từ giữa năm 1965 đến đầu năm 1967. Với địa vị đứng hàng thứ ba sau hai tướng Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ, tôi chẳng những có thanh thế trong nước, mà còn có tiếng tăm ở nước ngoài. Tôi đã đi thăm và hoạt động ngoại giao ở nhiều nước trên thế giới. Ở Châu Á tôi đã đi thăm Thái Lan, Đài Loan, Phi Luật Tân và Đại Hàn. Ở Châu Âu, tôi đã đến các nước Anh, Đức và Ý. Đặc biệt tôi đã được Đức Giáo Hoàng Paul VI tiếp kiến tại Toà Thánh Vatican. Ở Châu Phi, tôi đã thăm và gặp gỡ các vị Tổng Thống Bourguiba của Tunisie, Tổng Thống Houphouet của Côte d Ivoire. Ở Hoa Kỳ, tôi đã được mời thăm 1 số lớn căn cứ quân sự Mỹ tại Hawai và trên đất liền.
Những Bước Thăng Trầm
Thử thách thứ nhất
Cuộc đời không có gì bền vững cả! Địa vị, danh vọng, tiền bạc, hạnh phúc, v.v. chúng đến khi gặp thời và ra đi khi vận hết. Năm 1967, với địa vị Phó Thủ Tướng chính phủ, kiêm Tổng Trưởng Quốc phòng, tôi được hai tướng Thiệu, Kỳ yêu cầu tôi đi Đài Loan với tư cách đại diện Quân đội và Chính phủ Việt Nam để cảm ơn Tổng Thống Tưởng Giới Thạch và chính phủ Đài Loan về những sự giúp đỡ quân sự, ngoại giao, và sự chân tình ủng hộ công cuộc chống cộng của Miền Nam Việt Nam.
Trong chuyến công du bảy ngày nầy tôi còn được giao phó:
- Khai trương đường bay Air Việt Nam Sài Gòn - Tapei.
- Thăm trường Đại học Quân sự và trường Võ bị.
- Nghiên cứu tổ chức, hoạt động Hội Cựu chiến binh Đài Loan.
Tôi được đón tiếp như một thượng khách với các nghi lễ đầy đủ. Báo chí Đài Loan cũng đề cao ca tụng tôi. Cuộc công du đang diễn ra tốt đẹp thì đến ngày thứ ba, bất trắc đã xảy ra cho tôi. Đại sứ Việt Nam tại Đài Loan là tướng Trần Thượng Khiêm và Đại sứ Trung Hoa Quốc Gia tại Việt Nam là Hồ Liên xin đến gặp tôi tại khách sạn ban đêm để trao cho tôi bản tin nhận được từ Sài Gòn. Tôi bị Hội Đồng Quân Lực xét xử và cách chức Phó Thủ Tướng và Tổng Trưởng Quốc Phòng, đồng thời bị giải ngũ khỏi quân đội. Tôi hơi bàng hoàng vì trước ngày tôi lên đường, mọi việc có vẻ bình thường. Tôi lấy lại bình tĩnh và nhận định đây là một âm mưu gạt tôi ra nước ngoài để loại tôi ra khỏi chính quyền. Hôm sau tướng Nguyễn Văn Thiệu gửi điện văn qua yêu cầu tôi sau khi chấm dứt công tác ở Đài Loan, tiếp tục dẫn phái đoàn đi thăm Đại Hàn. Tôi liên lạc điện thoại về Sài Gòn nói chuyện trực tiếp với Tướng Thiệu. Tôi trình bày rằng tôi không thể đi Đại Hàn được vì các anh đã "cách chức tôi", hơn nữa cuộc công du nầy chưa chuẩn bị. Thiệu cố ý ép tôi đi Đại Hàn với dụng ý đưa tôi đi xa để khỏi trở về nước. Nhưng tôi xin được đến Hong Kong tị nạn chính trị. Cuối cùng Thiệu ưng thuận.
Ngày 20 tháng giêng năm 1967, tôi rời Đài Bắc với lễ nghi tiễn đưa bình thường. Tôi rất cảm kích về sự chân tình của Tổng Thống Tưởng Giới Thạch và chính phủ Đài Loan đã thông cảm hoàn cảnh tôi. Về đến khách sạn Fortuna ở đường Nathan thì có thiếu tướng Linh Quang Viên điện thoại đến xin gặp. Anh Viên được Thiệu cử sang Hong Kong gấp để trao cho tôi bức thư Thiệu viết tay với nội dung ngắn gọn đầy sự hăm dọa. Thiệu khuyên tôi tạm ở nước ngoài, để anh em bên nhà sắp xếp công việc. Nếu tôi tìm cách trở về thì Thiệu không bảo đảm sinh mạng. Anh Viên là người ôn hoà được tôi yêu mến. Anh đang giữ chức vụ Bộ trưởng bộ An Ninh. Tôi vui vẻ bảo với anh Viên về trình với Thiệu, tôi sẽ không làm gì gây khó khăn cho anh em bên nhà, miễn các anh em xử đẹp với tôi thôi.
Tôi mau chóng ổn định cuộc sống ở Hong Kong. Tôi thuê được một căn hộ nhỏ để tôi và hai sĩ quan tùy viên trung tín ở chung. Đó là đại uý Đoàn Văn Sanh và Nguyễn Văn Hưỡn (về sau tôi cho Sanh về nước, còn Hưỡn ở với tôi một năm). Tôi dần dần có nhiều bạn bè ở Hong Kong. Một số bạn bè do tòa Tổng lãnh sự Đài Loan giới thiệu (tổ chức chìm không có văn phòng). Họ là những người giàu có trong Tổ chức Quốc Dân Đảng ở Hong Kong. Những người nầy tìm cách an ủi tôi bằng những cuộc chiêu đãi vui chơi, ăn uống, du ngoạn. Có một số khác là người Việt Nam sinh sống lập nghiệp ở Hong Kong, trong số nầy đáng kể nhất là cụ Lưu Đức Trung, 67 tuổi, trước làm cố vấn cho vua Bảo Đại, lúc cựu Hoàng Đế nầy sống lưu vong ở Hong Kong (1946-1949).
Một người nữa là Hồng Hữu Ba (40 tuổi) quê ở Bạc Liêu, có vợ người Hoa làm ở bệnh viện Hong Kong, còn ông làm Chấp sự Hội Thánh Tin Lành Hong Kong. Ông Ba thường đến nhà tôi để chia sẻ về Đức Chúa Trời, về Đấng Cưứ Thế Jesus. Ông ba tặng tôi quyển Kinh Thánh Tân Ước và khuyên tôi nên đọc và suy gẫm lời Chúa. Tôi ghi nhận lòng tốt và sự sốt sắng của ông Ba, nhưng thú thật lúc đó cửa tâm hồn còn đóng kín, ánh sáng chân lý chưa lọt được vào trong. Tôi chẳng chú tâm tìm hiểu và cũng lười đọc Kinh Thánh.
Tôi tạm yên vui với cảnh sống Hong Kong. Vợ con tôi mỗi năm sang thăm và ở lại với tôi vài lần. Gia đình tôi bên nhà cũng yên ổn sau vài tuần gặp khó khăn ban đầu. Với thời gian thì việc gì cũng qua. Việc của tôi bị lãng quên khỏa lấp với những sự việc mới.
Sau khi đắc cử Tổng Thống, Thiệu triệu hồi tôi về nước, Tướng Trần Thiện Khiêm đại sứ ở Đài Loan, Tướng Đổ Cao Trí đại sứ ở Đại Hàn. Giữa năm 1969 Thiệu cũng nhờ Tướng Trần Văn Đôn (Nghị Sĩ) sau khi đi công tác ở Đài Loan ghé Hong Kong. Ngài cho tôi biết Thiệu đã đồng ý cho tôi về nước. Nhưng mãi đến 29-01-1970 Thiệu mới gởi điện cho tôi trở về.
Ba năm ở Hong Kong đã làm cho tôi đủ thời gian suy gẫm định hướng tương lại cuộc đời. Tôi quyết định sau khi trở về nước sẽ xoá hết mọi thù hiềm, quên đi chuyện cũ. Tôi dứt khoát không tham gia chính trị và chỉ lo làm ăn nuôi sống gia đình.
Thử thách thứ hai
Trong năm 1970 tôi lập một trại nuôi gà ở xã Phước Long, Thủ Đức, thu nhập tạm đủ cho gia đình chi dùng. Cuối năm 1970, do giao dịch với Tín Nghĩa ngân hàng, tôi gặp lại anh Nguyễn Tấn Đời và nối lại tình bạn cũ ngày trước. Anh Đời mời tôi hợp tác với Tín Nghĩa ngân hàng. Tôi chấp nhận ngay, vì việc chăn nuôi cũng bấp bênh, không có tương lai. Sau khi học việc một thời gian, anh Đời cho tôi làm phó tổng giám đốc các chi nhánh. Với chức vụ nầy tôi thường đi thanh tra các chi nhánh ở Sài Gòn và các tỉnh, từ 9 lúc ban đầu phát triển đến 22 chi nhánh, lúc Tín Nghĩa Ngân hàng bị rút giấy phép. Tháng 4 năm 1973, Tín Nghĩa ngân hàng bị rút giấy phép hoạt động vì Đoàn Thanh tra ngân hàng đã thấy nhiều hồ sơ cho vay bất hợp lệ. Anh Đời và các nhân viên chủ chốt bị bắt giam ở Chí Hoà và bị truy tố ra toà. Tôi cũng bị truy tố ra tòa, nhưng được tại ngoại, có lẽ vì tôi không dính líu đến việc làm ăn và cho vay ở trụ sở Trung Ương. Thế là tôi bị mất việc, phải xoay ra nghề khác sinh sống. Tôi mở một tiệm buôn xe đạp ở Sài Gòn, và lập một cơ sở chế biến khô mực xuất khẩu ở Vũng Tàu.
Thử thách thứ ba
Năm 1975, sau khi Phước Long rồi Ban Mê Thuộc bị thất thủ. Tôi bắt đầu lo lắng cho số phận miền Nam Việt Nam. Khi Chính Phủ quyết định rút bỏ Kontum, Pleiku, tình hình quân sự suy sụp mau chóng. Trọn tháng 4, tôi đã bỏ hết công việc làm ăn để tìm phương tiện đưa gia đình ra nước ngoài. Nhưng số phận tôi đã an bài. Tất cả những lo liệu của tôi đều thất bại. Gia đình chúng tôi bị kẹt sau ngày miền Nam hoàn toàn thất thủ. Tôi không trách bạn bè sao không giúp đở vì trước cảnh dầu sôi lữa bỏng, ai cũng lo cho bản thân mình trước đã. Là kẻ chiến bại còn ở lại, tôi phải chấp nhận mọi tình huống nguy hiểm xảy ra. Trước hết là mất tài sản, tôi được lệnh lên Đà Lạt và ra Vũng Tàu giao nhà cho Uỷ Ban quân quản. Cơ quan nầy từ chối không chấp cho tôi biên lai nhận nhà. Đây là một sự tước đoạt cứ không phải là chuyển giao. Nhà tôi đang ở 181-Cách Mạng cũng giao cho ông chủ mới. Lúc đó mạng sống của tôi còn không bảo đãm được nữa là nói chi đến tài sản. Cuối cùng là lệnh gọi đi trình diện cải tạo. Từ đây những ngày dài vô tận và vô cùng đen tối đã bao trùm lên tôi và gia đình tôi.
(Còn tiếp)

Nguyễn Hữu Có (1925-2012), quê tại Mỹ Tho, là một cựu chính khách và tướng lĩnh Việt Nam Cộng hòa. Ông từng giữ chức Phó thủ tướng, kiêm Tổng trưởng Quốc phòng Việt Nam Cộng Hòa, đồng thời là Tổng tham mưu trưởng Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, hàm Trung tướng (19651967). Tuy vậy, đến cuối năm 2004, ông được bầu làm Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với tư cách là nhân sĩ tự do. Ông được chính phủ Việt Nam xem như một biểu tượng của sự hòa giải dân tộc, xóa bỏ hận thù của 30 năm chiến tranh.

Cuộc đời binh nghiệp và chính trường

Năm 1939, ông gia nhập lực lượng Thiếu sinh quân Đông Dương, đến tháng 4 năm 1946, gia nhập quân đội Pháp với hàm Trung úy, dưới quyền đại úy Phan Tử Nghi.

Rời bỏ chính trường

  • Những năm tiếp theo, ông trở thành đối tượng mà tướng Thiệu và tướng Kỳ phải gạt bỏ. Năm 1967, trong khi đang đi công tác ở Đài Loan, ông bị gạt ra khỏi mọi chức vụ trong quân đội và cử làm Đại sứ, phải lưu vong tại Đài Loan cho đến năm 1970 mới được tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cho hồi hương.
  • Sau khi được hồi hương, ông tham gia thương trường và từng giữ chức Phó tổng giám đốc Tín Nghĩa Ngân Hàng (từ 1971 đến 1973). Tuy được xem là kẻ cựu thù, nhưng ông lại là người ủng hộ tướng Dương Văn Minh làm lãnh đạo của lực lượng thứ ba tham gia chính trường.
  • Năm 1975, khi tướng Dương Văn Minh nhậm chức tổng thống, ông được cử giữ chức cố vấn quân sự. Ông là một trong 2 tướng lĩnh còn ở lại bên tổng thống đến giờ phút cuối cùng của Sài Gòn (người kia là Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh).
Cuộc sống sau 1975