Wednesday, November 28, 2018

Phó Đề Đốc Đinh Mạnh Hùng Hải Quân VNCH

CÁO PHÓ
Chúng tôi vô cùng đau đớn báo tin cùng thân bằng quyến thuộc và bạn hữu gần xa
Chồng, Cha, và Ông của chúng tôi là:

Ônh Đinh Mạnh Hùng
Cựu Phó Đề Đốc Hải Quân VNCH
Pháp Danh: Nguyên Tuế
Vừa thất lộc vào ngày 22 tháng 11 năm 2018
(nhằm ngày 15 tháng 10 năm Mậu-Tuất)
tại Fairfax, Virginia

Hưởng thọ 87 tuổi

Linh cửu được quàn tại
Fairfax Memorial Funeral Home –- 703-425-9702
9902 Braddock Road, Fairfax, Virginia 22032

Tang gia đồng kính báo
Vợ: Bà quả phụ Đinh Mạnh Hùng, nhủ danh Phan Thị Kim-Yến
Trưởng Nữ: Đinh Thị Kim-Dung, chồng Vũ Đức Pháp (Maryland)
Cháu Alexander và Christine
Thứ Nữ: Đinh Thị Quỳnh-Liên, chồng Trần Nguyên Tuấn (Virginia)
Cháu Khải (Aaron) và Lộc (Michael)
Trưởng Nam: Đinh Quang Minh, vợ Nguyễn Diễm Hương (Maryland)
Cháu Caroline, Viviane và Audrey
Thứ Nữ: Đinh Thị Quỳnh-Hương, chồng Jason Ellis (New York)
Cháu Anya và Julian

Gia đình bà Phan Thị Kim-Yến, các con:
Lê Nguyên Quang, vợ Michelle và các con
Lê Nguyên Minh, vợ Angela và các con
Lê Nguyên Chính, vợ Venice và con
Lê Nguyên Tường-Vi, chồng Gilbert và con

Cáo phó này thay thế thiệp tang – Xin miễn phúng điếu

CHƯƠNG TRÌNH TANG LỄ
Fairfax Memorial Funeral Home –- 703-425-9702
9902 Braddock Road, Fairfax, Virginia 22032

Thứ Bảy, ngày 1 tháng 12 năm 2018
10:00AM –8:00PM
Lễ Phát Tang
Gia đình và thân hữu thăm viếng
Nghi lễ cầu nguyện

Chủ Nhật, ngày 2 tháng 12 năm 2018
10:00AM –3:00PM
Gia đình và thân hữu thăm viếng
10:30AM - Nghi lễ truy điệu Hải Quân VNCH
11:30PM - Gia đình và thân hữu nói lời tiễn biệt
2:00PM - Lễ Cầu Siêu
Lễ di quan và hỏa táng


------------------------------------------------------------------------------------------------------
Tiểu sử Phó Đề đốc Đinh Mạnh Hùng: https://vi.wikipedia.org/w…/%C4%90inh_M%E1%BA%A1nh_H%C3%B9ng
Phỏng vấn Phó Đề Đốc Đinh Mạnh Hùng: https://dongsongcu.wordpress.com/…/phong-va…/comment-page-1/
Hải Quân VNCH Di Tản Năm 1975 (Đinh Mạnh Hùng): https://baovecovang2012.wordpress.com/…/hai-quan-vnch-di-t…/
Phát Biểu của Phó Đề Đốc Đinh Mạnh Hùng tại lễ ra mắt UBVD Hậu Duệ VNCH Hải Ngoại: https://www.youtube.com/watch?v=xnNFZ_tHKFY
-----------------------------------------------------------------------------------------------------
 

Phó Đề Đốc Đinh Mạnh Hùng
Ông Đinh Mạnh Hùng sinh năm 1932 tại Hà Nội; tốt nghiệp thủ khoa khóa 2 sĩ quan Hải Quân Nha Trang.

Chức vụ đã đảm nhận:
Sĩ quan đệ tam Trục Lôi Hạm Geranium.
Hạm Phó HQ 330.
Hạm Trưởng HQ 225.
Nhận lãnh tại Hoa Kỳ và trở thành Hạm Trưởng HQ 115.
Hạm Trưởng HQ 405.
Chỉ Huy Trưởng Hải Đoàn 25 Xung Phong.
Tham Mưu Phó Hành Quân Bộ Tư Lệnh Hải Quân.
Quyền Tham Mưu Trưởng Bộ Tư Lệnh Hải Quân.
Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Hải Lực.
Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Nha Trang
Tư Lệnh Lực Lượng Thủy Bộ.
Tư Lệnh Hành QuânLưu Động Sông.


Tu nghiệp:
U.S. Naval Postgraduate school, California.
U.S. Naval War College, Newport, Rhode Island.
Trường Cao Đẳng Quốc Phòng.
Khóa Quản Trị Quốc Phòng, Hoa Kỳ.


Ân Thưởng:
Đệ ngũ đẳng Bảo Quốc Huân Chương.
01 Hải Quân Huân Chương
05 Anh Dũng Bội Tinh.
01 Hải Vụ Bội Tinh.


Thành tích:
Chỉ huy Hải Quân tham dự các chiến dịch: Đinh Tiên Hoàng, Hoàng Diệu, Sóng Tình Thương để bình định Năm Căn, Cà Mau.
Hành quân bình định Miền Tây.
Chỉ huy các cuộc hành quân Trần Trần Hưng Đạo trên sông ngòi



Phó Đề Đốc Đinh Mạnh Hùng (1932), nguyên là một tướng lĩnh Hải quân của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, Hải hàm Phó Đề đốc, cấp bậc Chuẩn tướng. Ông xuất thân từ trường Sĩ quan Hải quân do Quân đội Quốc gia thành lập tại Duyên hải miền Trung Việt Nam trên cơ sở cũ của Hải quân Pháp. Thời gian tại ngũ, ông đã phục vụ trong Quân chủng Hải quân của Quân đội Quốc gia, tiếp đến là Quân đội Việt Nam Cộng hòa và sau cùng là Quân lực Việt Nam Cộng hòa cho đến cuối tháng 4 năm 1975.


Tiểu sử & Binh nghiệp

Ông sinh vào tháng 11 năm 1932 trong một gia đình khá giả tại Hà Nội. Tốt nghiệp Trung học chương trình Pháp tại Hà Nội với văn bằng Tú tài bán phần (Part I). Giữa năm 1952, ông thi vào học và tốt nghiệp ở trường Hàng hải Thương thuyền (École Marine Marchande) của Pháp tại Sài Gòn.

Quân đội Quốc gia Việt Nam

Cuối tháng 10 năm 1952, ông tình nguyện nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia và được chuyển thẳng từ ngành Hàng hải Thương thuyền sang Lực lượng Hải quân, mang số quân: 52/700.005. Theo học khóa 2 tại trường Sĩ quan Hải quân Nha Trang, khai giảng ngày 1 tháng 11 năm 1952. Tháng 5 năm 1953 mãn khóa tốt nghiệp Thủ khoa với cấp bậc Hải quân Thiếu úy thuộc ngành chỉ huy. Ra trường, ông được điều đến phục vụ tại Hải đoàn 24 Xung phong ở Nam Định.

Quân đội Việt Nam Cộng hòa

Đầu năm 1955, ông được cử làm Hạm phó Giang pháo hạm Hải quân. Cũng trong năm này, sau khi nền Đệ nhất Việt Nam Cộng hòa ra đời và Quân đội Quốc gia được đổi tên thành Quân đội Việt Nam Cộng hòa, ông được thăng cấp Hải quân Trung úy và giữ chức vụ Chỉ huy trưởng Giang đoàn 25 Xung phong đầu tiên khi Hải quân Pháp chuyển giao lại cho Hải quân Việt Nam. Ở chức vụ này ông đã trực tiếp cùng đơn vị tham dự chiến dịch Đinh Tiên Hoàng do Đại tá Dương Văn Đức làm Chỉ huy trưởng. Kế tiếp, tham dự chiến dịch Hoàng Diệu do Đại tá Dương Văn Minh làm Chỉ huy trưởng. Chiến dịch kết thúc vào tháng 10 cùng năm. Tháng 12 cuối năm, ông được lệnh bàn giao Giang đoàn 25 lại cho Hải quân Đại úy Lê Thanh Truyền.
Ngày Quốc khánh Đệ nhất Cộng hòa 26 tháng 10 năm 1958, ông được thăng cấp Hải quân Đại úy tại nhiệm và được giao nhiệm vụ nhận lãnh Trục lôi hạm Chương Dương II HQ-115 do Hải quân Hoa Kỳ chuyển giao lại cho Hải quân Việt Nam Cộng hòa. Cuối tháng 10 năm 1961, ông được thăng cấp Hải quân Thiếu tá giữ chức vụ Quyền Tham mưu trưởng tại Bộ tư lệnh Hải quân. Giữa năm 1962, ông được chỉ định làm Chỉ huy trưởng Hải Lực.
Đầu tháng 1 năm 1963, ông được cử làm Tham mưu trưởng cuộc Hành quân Sóng Tình Thương tái chiếm và bình định khu vực Năm Căn, Cà Mau do Hải quân Đại tá Hồ Tấn Quyền đương nhiệm Tư lệnh Hải quân làm Chỉ huy trưởng.
Ngày Quân lực 19 tháng 6 năm 1965, ông được thăng cấp Hải quân Trung tá và được cử đi du học lớp Chỉ huy Tham mưu tại trường Cao đẳng Hải chiến Hoa Kỳ ở Newport, Rhode Island. Tháng 7 năm 1966, mãn khóa Hải chiến trở về nước ông được bổ nhiệm làm Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Hải quân Nha Trang thay thế Hải quân Thiếu tá Bùi Hữu Thư.
Đầu tháng 3 năm 1969, nhận lệnh bàn giao chức Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện lại cho Hải quân Trung tá Khương Hữu Bá. Ngay sau đó ông được thăng cấp Hải quân Đại tá giữ chức phụ tá Tư lệnh Hải quân đặc trách Hành quân Lưu động sông.
Ngày Quốc khánh Đệ nhị Cộng hòa 1 tháng 11 năm 1972, ông được thăng cấp Hải hàm Phó Đề đốc, cấp bậc Chuẩn tướng, được cử giữ chức vụ Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Hành quân Lưu động sông. Đầu năm 1974, ông được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Lực lượng Hành quân Lưu động sông.

1975

Đêm 29 tháng 4, ông di tản ra khơi rời khỏi Việt Nam trên Tuần dương hạm Trần Nhật Duật HQ-3 do Hải quân Trung tá Nguyễn Kim Triệu làm Hạm trưởng. Sau đó ông sang Hoa Kỳ định cư tại Fairfax thuộc Tiểu bang Virginia. 

  Gần đây, Dân Sinh Media phát hành một DVD kể lại câu chuyện di tản của Hạm đội Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa, đi từ đảo Côn Sơn sang vịnh Subic, Phi Luật Tân. Cuốn DVD “Chuyến Hải Hành Cuối Cùng” (CHHCC) đã đưa lên khung cảnh hỗn loạn tại Việt Nam vào những ngày cuối tháng 4 năm 1975.
Qua các phỏng vấn và hình ảnh, DVD cũng đã cho ta thấy tình trạng lo lắng, hoang mang, bất an của thủy thủ đoàn và “tình hình trên các chiến hạm căng thẳng như thùng thuốc súng sắp nổ tung”. Riêng câu hỏi “ai đã khéo chỉ huy, lèo lái tình hình, hướng dẫn đoàn tàu ra đi trong trật tự và bình yên” thì có lẽ chưa thấy được giải đáp thỏa đáng.
Về câu hỏi này, là một thành phần trong bộ tham mưu di tản, người viết xin đóng góp một số nhận xét như một chứng nhân của cuộc hành trình lịch sử này. Tất cả những gì trình bày sau đây cũng đã được tóm lược trong cuốn Hải Sử Tuyển Tập do Tổng Hội Hải Quân VNCH phát hành năm 2004, từ trang 523 đến trang 530.
Các nhận xét về chuyến đi này được chia làm hai phần:
Phần 1: Diễn tiến cuộc di tản Phần 2: Các nhân vật điều động
Phần 1 – Diến tiến cuộc di tản
Khởi hành từ Sài Gòn lúc 7:00 giờ tối ngày 29 tháng 4 năm 75, các chiến hạm Hải quân Việt Nam Cộng Hòa tập trung tại Côn Sơn từ chiều ngày 30 tháng 4. Hạm đội khởi hành đi Subic Bay, Phi Luật Tân trưa ngày 1 tháng 5 và đến Phi Luật Tân vào chiều ngày 7 tháng 5.
Các diến tiến sau đây bắt đầu từ lúc hạm đội hình thành tại Côn Sơn và được phân thành các tiểu đoạn như sau:
1.1 Bộ tham mưu 1.2 Vấn đề truyền tin 1.3 Đi hay ở lại 1.4 Hành trình
– Làm gì bây giờ? – Đi đâu? – Ngày giờ khởi hành – Hải hành
1.5 Đến bến
– Chuẩn bị vào bến – Đến bến
1.1 Bộ tham mưu
Năm 2001, Ban Hải sử Tổng hội Hải quân Việt Nam Cộng Hòa có hỏi tôi một số câu hỏi, trong đó có câu sau: “Xin Đề đốc cho biết, khi rời Sài Gòn, Bộ Tư Lệnh nổi trên đường di tản được tổ chức ra sao? Một cách cụ thể, bên dưới Đô Đốc Cang, các giới chức Hải quân trên HQ 3 đã được phân nhiệm như thế nào?” Tôi đã trả lời như sau: “Bây giờ thì gọi là Bộ Tham Mưu chứ trên thực tế lúc đó thì tùy cơ ứng biến. Có việc gì thì họp nhau cùng bàn, sau khi có sự đồng ý của Đô đốc Cang thì chia nhau mà làm, miễn sao có kết quả êm đẹp”.
Thực tế đã diễn ra đúng như vậy. Trên HQ 3 – Tuần dương hạm Trần Nhật Duật – mà Hạm trưởng là HQ Trung tá Nguyễn Kim Triệu, ngoài thủy thủ đoàn, thành phần BTL/HQ gồm có, theo thứ tự thâm niên: Phó Đô đốc Chung Tấn Cang, Phó Đề đốc Đinh Mạnh Hùng, Phó Đề đốc Diệp Quang Thủy, Phó Đề đốc Hoàng Cơ Minh và HQ Đại tá Nguyễn Xuân Sơn. Về sau, có Phó Đề đốc Đặng Cao Thăng đến từ Vùng 4 Sông ngòi, Phó Đề đốc Nghiêm Văn Phú từ Lực lượng Tuần thám.
Bây giờ nghĩ lại, thấy có vẻ khôi hài. Người thì ít mà toàn là tướng không, vậy ai làm lính. Cũng may là công việc làm không dùng đến cơ bắp, chỉ cần có cái miệng, nhưng lại phải trực phiên 24 tiếng đồng hồ, ăn ngủ tại chỗ, cũng khá mệt nhọc. Chắc có người thắc mắc nhân viên đâu cả? Xin thưa: họ cùng với gia đình ở rải rác trên các chiến hạm khác. Đây cũng chứng tỏ sự linh động và nhân hậu của cấp lãnh đạo.
Sau buổi họp tham mưu cao cấp trên HQ 3 chiều ngày 30 tháng 4, khi giải tán, các giới chức đến họp đã trở về chiến hạm chở gia đình họ. Như vậy mặc nhiên ngầm có sự đồng ý để các nhân viên ở gần gia đình họ. Biết rằng hầu hết các sĩ quan đều mang theo gia đình họ nên không ai có ý nghĩ gọi họ lại nhiêm sở. Tôi nghĩ rằng, nếu không vì gia đình, chắc chắn mọi người sẽ tự động trở về nhiệm sở của mình.
1.2 Vấn đề truyền tin
Kể từ lúc Đại tướng Dương Văn Minh tuyên bố hạ súng vào sáng ngày 30 tháng 4 thì hệ thống truyền tin như một cái chợ vỡ. Đủ mọi chuyện được đem ra trao đổi hỏi han, nhất là các đề tài sau: bàn về tình hình, hỏi han tin tức gia đình, bàn chuyện di tản hay không, than van về tình cảnh cá nhân v.vv…, chứng tỏ một tình trạng lo lắng hoang mang cực độ của các thủy thủ đoàn. Tình trạng này nếu tiếp tục thì thật là nguy hiểm vì có thể đem lại sự phân hóa trong hạm đội. Mặt khác nếu ngăn chặn thông tin thì làm sao hiểu được tình hình mà trù liệu công việc. Đó là chưa kể các mối lo khác như bị xâm nhập và phá rối, khuyến dụ của Việt cộng.
Để giải quyết tình hình này, Phó Đề đốc Hoàng Cơ Minh được chỉ định đảm trách điều hành hệ thống liên lạc, chỉ huy và là người độc nhất được sử dụng hệ thống truyền tin để tránh khỏi bị cướp phá. Tóm lại, Phó Đề đốc Minh thường trực đích thân theo dõi hệ thống truyền tin để: bảo đảm an ninh truyền tin, theo dõi tình hình, giải quyết các vấn đề có thể giải quyết ngay, nêu lên các vấn đề cần giải quyết, chuyển các quyết định của BTL cho các đơn vị và theo dõi thi hành.
Trong thư trả lời ban Hải sử, tôi đã tóm tắt vấn đề như sau: “Chỉ huy chiến thuật đòi hỏi 4 điều kiện khi liên lạc: An toàn chính xác về truyền tin, nắm vững tình hình, tiếng nói của thẩm quyền. Trong khi triệt thoái, binh sĩ hoang mang dao động, các điều kiện trên lại càng quan trọng. Phó Đề đốc Minh đã có nhiều kinh nghiệm điều quân trong sông nên ông rất hữu hiệu trong trách vụ liên lạc chỉ huy…” Đúng vậy, Phó Đề đốc Minh đã hoàn thành nhiệm vụ này một cách tối hảo. Tiếng nói của ông vang vang trên hệ thống truyền tin suốt ngày đêm cũng như sự duy trì được kỷ luật và an ninh truyền tin trong suốt cuộc hành trình là một kỳ tích ít người làm được. Và là một đóng góp quyết định vào sự hoàn thành tốt đẹp của cuộc di tản. “Ngoài việc bảo đảm được sự vận hành của hệ thống truyền tin, các đóng góp của Phó Đề đốc Minh vào sự giải quyết các công việc khác cũng đáng được ca ngợi” (Hải sử Tuyển tập trang 527).
1.3 Đi hay ở lại?
Đối với hầu hết các thủy thủ đoàn, khi các chiến hạm thi hành lệnh tập trung tại Côn Sơn thì việc đi hay ở lại chưa thành một vấn đề. Nhưng từ lúc Đại tướng Dương Văn Minh tuyên bố buông súng thì tình hình trở nên sôi động. Chuyến đi này trở thành chuyển đi sau cùng và một chiều của hạm đội. Sẽ không có ngày trở lại. Trong suốt đêm 30 tháng 4, giải quyết vấn đề đi hay ở lại là công việc chính của bộ tham mưu. Vấn đề này bao gồm hai mặt: mặt cá nhân và mặt chiến hạm.
Về mặt cá nhân tương đối dễ giải quyết. Từ chập tối 30 tháng 4, đã có những cá nhân tỏ ý không muốn rời Việt Nam và muốn trở lại Sài Gòn. Đến trưa hôm sau thì số người muốn trở về Sài Gòn mỗi lúc một đông, trở thành một vấn đề cần phải được giải quyết. Để trấn an mọi người, quyết định cung cấp phương tiện cho những ai muốn về lại Sài Gòn được ban hành và thông báo ngay đến toàn thể chiến hạm. Một hỏa vận hạm được chọn và đến từng tàu bốc người muốn trở về. Ngoài chiếc hỏa vận hạm, một số tuần duyên đỉnh (PCF) cũng xin về theo… Kể đến lúc Hạm đội khởi hành đi Subic Bay, tất cả những ai không muốn di tản đã được thỏa mãn nguyện vọng và được chuyển vận trở về Vũng Tàu.
Về mặt chiến hạm, vấn đề không còn là cá nhân mà trở thành tập thể. Vì chiến hạm gồm thủy thủ đoàn sẽ không di tản, mà ở lại Việt Nam. Giải quyết các trường hợp này thì dễ hay khó tùy thuộc vào mức độ phân vân của đơn vị liên hệ. Đa số trường hợp được giải quyết thỏa đáng qua thảo luận trên hệ thống truyền tin giữa đơn vị trưởng và Phó Đề đốc Minh hoặc đại tá Sơn. Điển hình là trường hợp HQ Thiếu tá Vương Thế Tuấn, Hạm trưởng HQ 229 (DVD CHHCC).
Tôi chỉ biết một trường hợp khó khăn, được giải quyết vào giờ phút cuối cùng, trước khi hạm đội lên đường. Sáng ngày 1 tháng 5, trong khi chuẩn bị khởi hành, thì có một chiến hạm báo cáo không muốn di tản và thủy thủ đoàn không muốn rời Việt Nam. Trên chiến hạm chỉ huy, Phó Đô đốc Cang nhìn chúng tôi dò hỏi. Đại tá Sơn đề nghị cho tàu đó cặp vào HQ 3 và để ông đi qua giải quyết. Rất lâu không thấy ông trở về. Đô đốc Cang sốt ruột và lo lắng ra mặt. Tôi lên tiếng đề nghị cho tôi sang đó xem xét tình hình. Sau một lúc ngần ngừ, Phó Đô đốc Cang bảo để ông cho cận vệ đi cùng tôi. Tôi suy nghĩ thật nhanh, là có cận vệ với tình hình này chưa chắc đã an toàn hơn nên từ chối và rời đài chỉ huy.
Bây giờ hồi tưởng lại lúc đó, tôi cũng thấy là lạ. Bước qua hạm kiều, ngoài mấy thủy thủ đứng gác, chiến hạm thật vắng lặng, có lẽ tất cả thủy thủ đoàn đang hội họp với đại tá Sơn. Càng lạ hơn là không thấy dân chúng hiện diện. Có thể tàu này đang công tác ngoài biển và được lệnh đến thẳng đây. Sau khi chào hỏi, một thủy thủ đưa tôi xuống phòng ăn đoàn viên. Bước vào, không khí thật kỳ lạ. Đại tá Sơn ngồi bàn chủ tọa, thủy thủ đoàn ngồi đối diện. Không ai nói năng gì. Một sự im lặng hoàn toàn. Trước tình hình đó, tôi chỉ biết nhìn thủy thủ đoàn rồi quay sang đại tá Sơn nói: “Đã đến giờ khởi hành, phải về tàu”. Nói xong tôi rời phòng hội, trở về HQ 3. Ít lâu sau đại tá Sơn cũng về tàu chỉ huy. Hạm đội lên đường đúng giờ ấn định.
Đến nay thì tôi vẫn không biết chuyện gì xảy ra trên chiến hạm đó. Qua đây, tôi có vài dịp gặp lại đại tá Sơn mà quên hỏi. Sự việc này đã được tôi trình bày ngắn gọn trong tập Hải Sử đề cập trên.
1.4 Hành trình
Làm gì bây giờ?
Kể từ lúc đại tướng Minh ra lệnh đơn phương ngừng bắn thì công cuộc di tản đã trở thành rõ rệt. Đây là chuyến đi một chiều của Hải quân VNCH, không có ngày quay trở lại. Nhưng làm gì tiếp thì chưa biết, ngoại trừ một nguyên tắc đã được Phó Đô đốc Cang đề ra trong khi chuẩn bị:“Nếu có làm gì thì cũng làm như một tập thể”.
Chiều ngày 30 tháng 4, ngay sau khi đến Côn Sơn, một buổi hội đã được triệu tập trên HQ 3 gồm các tướng lãnh và sĩ quan cao cấp có mặt tại điểm tập trung. Buổi hội tương đối ngắn và không có gì phải thảo luận và bàn cãi nhiều. Sau khi xem xét tình hình chính trị và tình trạng hạm đội, mọi người đồng ý là phải liên lạc ngay với Hoa Kỳ. Đến đây gặp khó khăn là không ai có tần số hay hay biết cách liên lạc với Hoa Kỳ. Trong khi mọi người đang suy nghĩ thì đại tá Sơn lên tiếng than phiền mình bị cách chức Tư Lệnh Hạm Đội một cách bất công. (Uẩn ức này kéo dài đến ngày nay và tôi sẽ trở lại vấn đề này sau). Không đợi Phó Đô đốc Cang giải thích, đại tá Sơn cho biết luôn là ông có tần số liên lạc với Hoa Kỳ. Trở ngại được giải quyết và buổi họp chấm dứt. Các giới chức trở về chiến hạm có chở theo gia đình mình….
Đi đâu?
Sáng sớm ngày 1 tháng 5, ông Armitage đại diện Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ đến HQ 3. Ông ngỏ lời là Hoa Kỳ đồng ý tiếp nhận hạm đội Việt Nam và đề nghị hạm đội di chuyển đến Căn cứ Hải quân Hoa Kỳ tại đảo Guam. Khi duyệt lại tình trạng hạm đội, thấy rằng nếu đi Guam xa gần 2 ngàn 500 hải lý thì nhất định sẽ gặp một số trở ngại quan trọng, đáng kể là tình trạng kỹ thuật của một số chiến hạm không được khả quan và hạm đội phải đi theo vận tốc của chiến hạm có tình trạng máy tệ nhất là là khoảng 5 gút (hải lý/giờ), thời gian hải hành quá lâu. Thêm nữa các chiến hạm chở quá đông dân chúng di tản, ước lượng khoảng 30 ngàn người, chắc chắn là sẽ gặp nhiều khó khăn về ăn uống. Do đó Bộ tham mưu đề nghị đưa hạm đội đến Subic Bay xa chỉ khoảng trên 900 hải lý. Mặc dù ông Armitage luôn luôn nhấn mạnh đến mong muốn của Hoa Kỳ là phải đi Guam, Phó Đô đốc Cang vẫn nhất định đi Phi Luật Tân…
Ngày giờ khởi hành
Sau khi cân nhắc tình hình chung, Phó Đô đốc Cang cho lệnh khởi hành di tản ngay sáng ngày 1 tháng 5. Có nhiều lý do đưa đến quyết định này. Một là để mọi người có việc làm, chấm dứt bàn tán, từ đó những hoang mang dao động sẽ tan dần, tinh thần trở nên ổn định. Hai là nếu ai còn do dự chuyện đi hay ở, sẽ đương nhiên chấm dứt và trở lại sinh hoạt bình thường. Ba là Côn Sơn trở nên không còn an toàn dưới áp lực tù cộng sản được giải thoát, chính quyền mới có thể gây khó khăn cho hạm đội (Hải Sử trang 527-528). Quyết định khởi hành sớm này dù đã không thỏa mãn được yêu cầu của một số cá nhân, như trường hợp đại tá Đỗ Kiểm còn thất lạc gia đình và dù phải bỏ lại một vài đơn vị như Vùng 5 Duyên Hải, nhưng cho thấy là một quyết định đúng, đem lại sự an toàn và thành công của chuyến di tản.
Hải hành
Nhờ thời tiết thật tốt, sóng yên biển lặng, nên chuyến di tản thuận buồm xuôi gió. Hạm đội sắp thành đội hình hai hàng dọc, tốc độ trung bình 5 gút.
Trên phương diện tiếp vận, các tàu đã được cung cấp đầy dầu nước và thực phẩm trước khi rời Sài Gòn. Tuy vậy, vì số dân di tản quá đông nên vấn đề ăn uống cũng gặp một số trở ngại. Nhờ óc sáng tạo và tinh thần kỷ luật cao của các thủy thủ đoàn, mỗi chiến hạm đã tự giải quyết các khó khăn. Hải quân Hoa Kỳ trợ giúp phần thực phẩm và y tế trong trường hợp thật cần thiết…
Nhìn chung, đối với tập thể thì các trắc trở không có là bao. Sau vài ngày hải hành, không tuần Hoa Kỳ cho biết là hạm đôi không còn giữ được đội hình hai hàng dọc, các chiến hạm cũng không giữ khoảng cách đều nhau. Để chấn chỉnh, Phó Đô đốc Cang chia hạm đội thành 2 phân đội và Đề đôc Lâm Ngươn Tánh đi trên HQ 1 được chỉ định chỉ huy phân đội 2. Từ đó đội hình hải hành được duy trì tốt đẹp. Vài biến cố nhỏ xảy ra trên chính chiếc soái hạm HQ 3. Một đám cháy trên sân thượng và cả hai máy chánh bất ngờ đều hư hỏng khi đến gần lảnh hải Phi nên phải cần đến tàu kéo của Hoa Kỳ.
Đối với từng cá nhân thì chuyến đi vất vả đau buồn. Có người gặp phải hoàn cảnh nan giải thương tâm. Cũng có người phải gánh chịu những hoàn cảnh đau xót riêng tư cần sự trợ giúp của đồng đội. Một số các trường hợp này- trường hợp Dương vận hạm HQ 502, Hải vận hạm HQ 402, Giang pháo hạm HQ 329 – đã được nhắc đến trong tập Hải Sử…
1.5 Đến bến
Chuẩn bị vào bến.
Khi sắp gần đến Phi Luật Tân thì nhận được tin là chính phủ này không chấp thuận cho hạm đội VNCH vào vịnh Subic. Bộ tham mưu họp bàn tìm giải pháp. Quả là một trường hợp ngoại giao phức tạp, không dễ dàng giải quyết. Giải pháp đưa hạm đội đi Guam được đề cập, cân nhắc. Hoa Kỳ lãnh trách nhiệm đưa 30 ngàn đồng bào đến Guam bằng các tàu dân sự để hạm đội dễ điều động cho một hải trình tiếp tục dài này. Trong lúc còn đang thu xếp thì Phó Đô đốc Cang đưa ý kiến là với tình hình hiện tại, Hạm đội của Hải quân VNCH nên được trao trả cho Hải quân Hoa Kỳ vì trên danh nghĩa đó, các chiến hạm Hoa Kỳ sẽ vào căn cứ Hải quân Subic của mình.
Ý kiến này được chuyển đến giới chức Hoa Kỳ. Một vài giờ sau, hạm đội được thông báo là giải pháp được chấp thuận với điều kiện:
– Tất cả đạn dược phải được ném xuống biển. – Cờ VNCH phải được thay bằng cờ Hoa Kỳ. Để thi hành điều kiện này, mỗi chiến hạm sẽ tiếp nhận một toán sĩ quan liên lạc Hoa Kỳ và thực hiện lễ hạ quốc kỳ VNCH và trương quốc kỳ Hoa Kỳ. Lễ hạ cờ VNCH được cử hành cùng một lúc trên tất cả chiến hạm vào đúng 12 giờ trưa ngày 7 tháng 5 năm 1975. Buổi lễ hạ cờ lịch sử trong không khí trang nghiêm và đầy xúc động, đã được kể lại trong nhiều bài viết trong mấy chục năm qua… – Xóa bỏ danh hiệu và danh số Việt Nam. Để thực hiện công việc này, trong lúc thủy thủ đoàn Việt Nam vận chuyển con tàu theo khẩu lệnh của sĩ quan hải hành Hoa Kỳ, các tiểu đỉnh Hoa Kỳ chạy cặp sát sườn chiến hạm để sơn lấp bỏ các danh số và danh hiệu VN dọc hai bên hông.
Đến bến
Chiều ngày 7 tháng 5, hạm đội VNCH vào thả neo trong vịnh Subic. Chuyến di tản an toàn, bình yên và đầy đủ. Mọi người thở phào nhẹ nhõm. Sau khi tàu bỏ neo thì việc điều hành lên bờ thuộc phía Hoa Kỳ. Vị sĩ quan liên lạc yêu cầu các sĩ quan cấp tướng rời tàu trước vì lý do an ninh. Theo kinh nghiệm, trong trường hợp triệt thoái như thế này có thể có những binh sĩ uất ức, gây gổ với giới lãnh đạo, làm mất trật tự. Dĩ nhiên ta phải nghe theo nhưng để thủy thủ đoàn đỡ xôn xao thắc mắc, hai Phó Đề đốc Nghiêm Văn Phú và Hoàng Cơ Minh tự nguyện ở lại.
Đồng bào được các viên chức Hoa Kỳ thu xếp và hướng dẫn sang các thương thuyền để chuyển sang đảo Guam. Họ làm việc có tổ chức cao, lớp lang, khoa học và thực tế. Vì vậy công tác di chuyển rất tốt đẹp. Hai vị Phó Đề đốc cùng với đồng bào sang tận Guam và chỉ trở lại cùng gia đình khi mọi người được tiếp nhận.
Phần 2 – Các nhân vật điều động cuộc di tản
Trong bất cứ hoạch định nào, luôn có hai nhân vật trọng yếu quyết định sự thành bại của công cuộc. Đó là người lãnh đạo và người chấp hành. Nếu người lãnh đạo suy tính sáng suốt và đưa ra các quyết định hợp lý thì triển vọng thành công đã được một nửa. Phần còn lại tùy năng lực của người chấp hành. Nhưng thường, người chấp hành có xuất sắc lắm thì mức thành công cũng chỉ đạt được 80% của triển vọng.
Trong chuyến di tản của hạm đội VNCH, Hải quân may mắn có được hai nhân vật xuất sắc nắm giữ hai vai trò này. Đó là Phó Đô đốc Cang trong cương vị chỉ huy và Phó Đề đốc Minh trong cương vị điều hành. Và Phó Đề đốc Minh điều hành tận tụy đến nỗi mọi người đều nghĩ ông chính là người chỉ huy toàn bộ cuộc di tản. Sẽ là một bất công đối với Phó Đô đốc Cang nếu sự ngộ nhận tiếp tục kéo dài. Người viết xin nêu lên sự phân công rõ rệt…
2.1 Phó Đô đốc Chung Tấn Cang
Phó Đô đốc Cang mới trở lại chức vụ Tư lệnh Hải quân một thời gian ngắn trước ngày 30 tháng 4. Ngoài công tác yểm trợ cho việc triệt thoái miền Trung, phần nhiệm cuối cùng của vị này là lo duy trì hải lực trong thời kỳ suy yếu của chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Quan trọng hơn cả là sự trù liệu cho hạm đội di tản khỏi Sài Gòn khi thành phố bị cộng quân đe dọa.
Trong việc này, có hai quan niệm khác nhau đưa đến việc cách chức Tư lệnh Hạm Đội của Hải quân Đại tá Nguyễn Xuân Sơn.
Theo nhãn quan của một số sĩ quan trong đó có thể lấy đại tá Sơn và đại tá Kiểm làm thí dụ điển hình. Theo sự trình bày công khai quan điểm của hai ông trong cuốn DVD “CHHCC”, thì:
1. Tình hình quân sự tại miền Nam là vô vọng, sự sụp đổ của VNCH là tất yếu. 2. Hoa Kỳ đã sẵn sàng giúp Hải quân triệt thoái khỏi Việt Nam. (Ông Armitage đề nghị với đại tá Kiểm và Đề đốc Holloway gián tiếp đề nghị với đại tá Sơn). 3. Như vậy phải chuẩn bị Hạm đội để di tản và mang theo tối đa dân chúng. Chính từ quan điểm này đã dẫn đến việc đại tá Sơn ra công điện chính thức cho gia đình thủy thủ đoàn đi theo tàu khi đi công tác để tránh trở ngại trường hợp có lệnh di tản. Quan niệm này được các sĩ quan cấp dưới tán thành vì hữu lý và cảm thông.
Tuy nhiên trên cương vị cấp lãnh đạo, Phó Đô đốc Chung Tấn Cang nhìn vấn đề không hoàn toàn thuần quân sự mà qua nhiều yếu tố trong đó quan trọng nhất là yếu tố chính trị quốc tế và một giải pháp chính trị dung hòa có thể được hình thành. Tình thế này đã được trình bày trong Hải sử Tuyển tập, trang 525: “…Trong buổi họp này, các công việc chuẩn bị đã được thảo luận và quyết định. Tôi không nghĩ là đã có một kế hoạch viết về dự trù di tản này. Vấn đề di tản dân chúng cũng không thấy được đặt ra. Chỉ nêu việc di tản hạm đội. Bao giờ di tản thì tùy tình hình quân sự quyết định. Còn làm gì tiếp sau thì tùy nhiều yếu tố chính trị phức tạp. Một số tình huống có thể xảy ra: Rút về Vùng 4 Chiến thuật và tiếp tục chiến đấu. Hoặc chia cắt đất hoặc lập chính phủ liên hiệp, chính quyền tan rã. Lúc bấy giờ không ai nghĩ đến việc đại tướng Dương Văn Minh ra lệnh buông súng!”
Theo Đề đốc Trần Văn Chơn thì ông không di tản vì “còn nước còn tát”. Các tướng lãnh đều tán thành quan niệm này. Nhưng sáng 29 tháng 4, Phó Đô đốc Cang được Đại tướng Minh cho biết là: “Nước đã cạn rồi, đi đi…” Cho tới lúc này, quan niệm của Bộ Tư Lệnh Hải quân vẫn là di tản khỏi Sài Gòn để bảo toàn lực lượng chớ không phải để tỵ nạn ngoại quốc. Vì vậy mọi hành động bất thường đưa đến suy diễn có ý định đào thoát đều không được chấp nhận. Những hành động bất thường này có thể dẫn đến tình trạng hoảng loạn trong các đơn vị. Ngay cả các sĩ quan cao cấp trong Bộ tư lệnh cũng rất thận trọng khi di chuyển gia đình xuống tàu vào giờ chót.
Trong tình huống chưa ngã ngũ, việc đại tá Sơn chính thức gửi công điện cho phép thủy thủ đoàn đưa gia đình xuống tàu là một hành động tự tiện, vô nguyên tắc. Việc cho phép thân nhân xuống tàu sẽ kéo theo việc cho phép thân nhân vào các căn cứ trên bờ, và như thế sẽ tạo cơ hội cho Việt cộng trà trộn, xâm nhập toàn bộ các đơn vị Hải Quân. Vì vậy sự việc ông bị cách chức Tư lệnh Ham Đội là điều dễ hiểu. Quyết định dứt khoát, cứng rắn của Phó Đô đốc Cang có thể đã giúp ngăn ngừa được các hành động dẫn đến rối loạn, thiếu an toàn trong vòng đai Hải quân.
Quan trọng nhất là việc cách chức cũng là để phòng ngừa trường hợp Tư lệnh Hạm Đội bất tuân lệnh Bộ Tư Lệnh Hải Quân, tự mình dẫn Hạm đội rời Sài Gòn khi tình hình chính trị chưa ngã ngũ.
Tôi mong Đại tá Sơn đọc được những dòng này mà thông cảm với Phó Đô đốc Cang và bớt nỗi bực dọc ở trong lòng. Cũng chính nhờ bộ óc nhạy bén của Phó Đô đốc Cang đưa ra các quyết định đứng lúc kịp thời mà chuyến di tản được an toàn đến bến bờ tự do…
2.2 Phó Đề đốc Hoàng Cơ Minh
Tôi đã có dịp ghi trong Hải Sử Tuyển Tập: “Phó Đề đốc Hoàng Cơ Minh là một tướng lãnh giỏi, lanh lẹ, tháo vát, lại có sức bền bĩ không mệt mõi nên ông đã đóng góp nhiều trong chuyện di tản. Nhờ ông mà hệ thống truyền tin không bị phá rối, các chỉ thị chuyển đi được kịp thời, các tin tức thu nhận được đầy đủ giúp việc đánh giá đúng mức. Tiếng nói của ông đủ thẩm quyền để đem lại sự tin tưởng và an tâm cho mọi người. Ngoài ra, bất kể lúc nào, khi có đơn vị nào cần ông có mặt tại chỗ là ông lấy tiểu đỉnh đến tận nơi tìm hiểu giải quyết.
Tóm lược, Phó Đề đốc Hoàng Cơ Minh đã hoàn thành mỹ mãn nhiệm vụ được giao phó trong chuyến di tản là duy trì an ninh truyền tin, trật tự đội hình và giải quyết khó khăn trở ngại cho hạm đội và cá nhân.
Lấy trường hợp HQ Thiếu tá Vương Thế Tuấn, Hạm trưởng HQ 229; HQ Thiếu tá Nguyễn Văn Phước, Hạm trưởng HQ 231 (như trong DVD) làm thí dụ. Cả hai Hạm trưởng đều ở trạng thái hoang mang bất định và muốn trở về Sài Gòn.
Chính Phó Đề đốc Minh đã can gián, khuyên giải nên họ đồng ý di tản. Đây chỉ là hai trường hợp điển hình. Còn vô số rắc rối từ cá nhân thủy thủ đoàn… Nhờ kiến thức sâu rộng, nhờ tài năng ăn nói của mình, Phó Đề đốc Minh đã duy trì được kỷ luật và trật tự giúp cuộc hành trình êm xuôi… Cũng nhờ khả năng thu thập và phân tích tình hình, ông đã giúp Phó Đô đốc Cang đưa ra các quyết định nhanh chóng, hữu hiệu…
Sau nữa, nhưng không phải là sau cùng là vấn đề oai quyền của người ra lệnh. Bình thường người quân nhân được huấn luyện để tuân hành mệnh lệnh. Tuy nhiên mức độ tuân hành cũng tùy thuộc vào hoàn cảnh. Trong trường hợp nguy biến cấp bách, cấp bậc của người ra lệnh càng cao thì mệnh lệnh càng có uy lực và dễ được tuân phục. Ta gọi đó là “lấy lon đè người”. Đấy là lý do tại sao Phó Đề đốc Minh được chỉ định phụ trách hệ thống liên lạc mà không phải là đại tá Sơn.
Mặt khác, ngoài uy quyền của một tướng lãnh, cá tính của Phó Đề đốc Minh cũng rất đặc biệt và dễ ảnh hưởng mạnh mẽ đến người đối thoại. Trong mọi hoàn cảnh, ông rất bình tĩnh, tự tin, lưu loát và thuyết phục mà không có tính cách ép buộc hay áp chế. Hơn nữa, Phó Đề đốc Minh rất dai sức, bền bĩ. Ông có thể làm việc ngày đêm không nghỉ mà vẫn minh mẫn, không tỏ vẻ mệt nhọc. Trong suốt cuộc hành trình, Phó Đề đốc Minh luôn luôn hiện diện tại nhiệm sở. Đêm như ngày, tiếng nói của ông vang vang trên hệ thống chỉ huy đã mang lại cảm giác bình an cho mọi người. Với một cá tính như vậy, dù không là một tướng lãnh, Phó Đề đốc Minh vẫn có thể hoàn thành nhiệm vụ của mình một cách hoàn hảo. Nhưng có lẽ cũng chính nhờ vậy mà ông được thăng lên hàng tướng lãnh một cách nhanh chóng, trước các bạn đồng khóa….
2.3 Đại tá Nguyễn Xuân Sơn
Trong DVD “Chuyến Hải Hành Cuối Cùng”, Đại tá Nguyễn Xuân Sơn tỏ ra không nhớ lại những gì ông đã làm trong chuyến di tản. Hoặc giả ông đã chóng quên, hoặc giả ông coi những gì ông làm trong khi di tản chỉ là công việc bình thường của người quân nhân nên không đáng ghi nhớ.
Điều động một hạm đội triệt thoái không phải giản dị mà rất phức tạp. Nếu không nắm vững tình hình hạm đội về khả năng từng chiến hạm, tình trạng kỹ thuật, mức độ khiển dụng sẵn sàng, tình trạng nhân viên, tính tình cấp chỉ huy… thì rất dễ đưa ra các quyết định khiếm khuyết gây khó khăn cho sự điều hành và ảnh hưởng đến sự hoàn tất của công việc.
Vì nguyên là Tư lệnh Hạm Đội, đại tá Sơn là người độc nhất trong Bộ tham mưu hiểu thấu đáo tình hình Hạm đội và đã thực sự có những đóng góp đáng ghi nhận vào cuộc di tản.
Như ở phần tiểu đoạn Làm gì bây giờ, tôi đã kể đại tá Sơn là người duy nhất biết cách và đã liên lạc ngay với Hoa Kỳ. Nếu không nhờ ông, do tình hình biến chuyển mau lẹ, kết quả việc di tản không biết ra sao. Nên ghi nhận là vào ngày 29 tháng 4 đã có chiến hạm tự động cho tan hàng mà không về điểm tập trung. Hai chiến hạm đã bỏ ý định này để gia nhập hạm đội di tản.
Trong sự hoạch định công việc, các ý kiến của đại tá Sơn đều được lưu ý và tôn trọng như khi:
– Cứu xét tình trạng hạm đội để đưa đến quyết định đi Subic Bay thay vì đi Guam. – Chọn lựa các chiến hạm đi trợ giúp các chiến hạm gặp khó khăn hay đi cứu vớt đồng bào tỵ nạn. – Ấn định đội hình, vận tốc và lộ trình hải hành di tản. – Sau hết, không nhớ rõ là trong những trường hợp nào, quá một lần người viết vẫn hình dung thấy bóng đại tá Sơn đi tới với câu nói” xong rồi” như khi vừa hoàn tất một công việc.
Kết
Gần 40 năm đã trôi qua kể từ ngày 30/4/1975, bây giờ hồi tưởng lại chuyện cũ, chỉ là những hình bóng lờ mờ trong tâm trí; kể lại những gì đã qua như trong một giấc mơ, đúng sai không chắc. Nếu có gì sai sót không đúng, in độc giả cứ tự nhiên lên tiếng, không cần tham khảo với người viết.
Xin đa tạ.

Đinh Mạnh Hùng



Thursday, September 13, 2018

Đại Tá Thiết Giáp Trần Văn Thoàn

- Sinh tháng 3 năm 1932 tại Pháp
- Nhập ngũ ngày 11-10-1954
- Xuất thân Trường Sĩ Quan Võ Bị Đà Lạt
Đơn Vị Thiết Giáp
- USA Command and General Staff College, Fort Leavenworth năm 1972
- Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 5 Bộ Binh 
- Mất tại Pháp tháng 9 năm 2018, hưởng thọ 87 tuổi 


Trần văn Thoàn và các con các cháu, vô cùng đau đớn báo tin

Đại tá Trần văn Thoàn/Quân Lực Viêt Nam Cộng Hòa, đã tử trần ngày 8 tháng 9, 2018, hưởng thọ 86 tuổi.

Lễ phát tang và cầu siêu sẽ được cử hành hồi 09:30 tại nhà quàn Funerarium d'Antony, 110 rue de Chatenay, 92160 Antony.

Lễ hỏa táng sẽ cử hành sau đó lúc 11:00 tại Crematorium du Val de Bièvre, 8 rue du Ricardo, 94110 Arcueil .

Gia đình đồng kính báo 
 
 
 
Cố Đại tá Trần Văn Thoàn / một trong những Sĩ quan kỳ cựu của Binh chủng Thiết Giáp / Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, đã từ trần ngày 8 tháng 9, 2018 tại Pháp Quốc. 

Hưởng Thượng Thọ 86 tuổi.
Được biết : Đại tá Trần Văn Thoàn, sinh tại Pháp. Thân mẫu là người Pháp, thân phụ là ông tòa Thoàn của Tòa Án Saigon một thời gian. 
Sau khi học hết trung học, Đại tá Thoàn về Việt Nam, bỏ quốc tịch Pháp để đầu quân vào trường Võ Bị Đà Lạt.
 
 

Saturday, March 24, 2018

Thiếu Tướng Trần Bá Di Tư Lệnh Sư Đoàn 9 BB, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn 4, CHT TTHL Quang Trung





Chương Trình Tang Lễ Cố Thiếu Tướng Phaolô Trần Bá Di:


VIEWING
Monday April 2, 2018 
AT FUNERAL HOME:
2:00pm — 6:00pm
AT CHURCH
7:00pm— 9:30pm

FUNERAL MASS:
 April 3,2018 at
10:00am-11:00am
At Nhà thờ Phan Văn Minh

FUNERAL HOME:
DeGusipe Funeral Home & Crematory


ORLANDO, Florida (NV) – Cựu Thiếu Tướng Trần Bá Di, cựu chỉ huy trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, vừa qua đời tại bệnh viện Orlando Regional Medical Center, Florida, lúc 4 giờ 20 phút sáng Thứ Sáu, 23 Tháng Ba, hưởng thọ 87 tuổi.

Tin này được cô Trần Quế Hương, con gái của ông Di, xác nhận với nhật báo Người Việt qua điện thoại.
Theo “Lược Sử Quân Lực VNCH” của ba tác giả Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, và Lê Đình Thụy, Thiếu Tướng Trần Bá Di sinh ngày 20 Tháng Bảy, 1931 tại Mỹ Tho, tỉnh Định Tường.
Sau khi hoàn tất trung học, ông theo học Khóa 5 Hoàng Diệu trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt vào năm 1951, tốt nghiệp thiếu úy năm 1952, và công tác tại Mỹ Tho.
Năm 1956, ông về công tác tại Đệ Nhất Quân Khu Sài Gòn.

Tháng Mười, 1957, ông học khóa Bộ Binh Cao Cấp tại căn cứ Fort Benning, Georgia, Hoa Kỳ.
Về nước, ông vẫn làm việc ở Sài Gòn, và đến Tháng Chín, 1959, ông làm phó tỉnh trưởng tỉnh Phong Dinh, kiêm chỉ huy trưởng Cơ Quan Quân Sự Phong Dinh.
Tháng Giêng, 1963, với cấp bậc thiếu tá, ông làm tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng Phong Dinh, và được thăng trung tá vào Tháng Sáu, 1964.
Đến Tháng Năm, 1965, ông lại có dịp đi Mỹ du học, lần này tại căn cứ Fort Leavingworth, Kansas.
Tháng Ba, 1967, ông làm tham mưu trưởng Sư Đoàn 9 Bộ Binh, đóng tại Sa Đéc, rồi làm tư lệnh phó sư đoàn, được thăng đại tá, và làm tham mưu trưởng Quân Đoàn 4 và Vùng Bốn Chiến Thuật kể từ Tháng Giêng, 1968.
Đến Tháng Bảy, 1968, ông được thăng cấp đại tá và làm tư lệnh Sư Đoàn 9, thay thế Thiếu Tướng Lâm Quang Thi qua làm chỉ huy trưởng trường Võ Bị Quốc Gia.
Tháng Tư, 1970, ông được vinh thăng chuẩn tướng nhiệm chức, đặc cách tại mặt trận.
Một năm sau, ông được vinh thăng chuẩn tướng thực thụ, cũng đặc cách tại mặt trận.
Ngày 1 Tháng Mười Một, 1972, ông được vinh thăng thiếu tướng nhiệm chức tại mặt trận. Sau đó, ông làm tư lệnh phó Quân Đoàn 4, và đến ngày 1 Tháng Tư, 1974, được vinh thăng thiếu tướng thực thụ.
Cũng trong năm 1974, vào ngày 1 Tháng Mười Một, ông được điều động về làm chỉ huy trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, thay thế Thiếu Tướng Phạm Văn Phú đi làm tư lệnh Quân Đoàn 2 và Quân Khu 2.
Sau ngày 30 Tháng Tư, 1975, ông bị tù Cộng Sản cho đến ngày 5 Tháng Năm, 1992.
Ngày 30 Tháng Tư, 1993, ông đoàn tụ với gia đình ở Orlando và sống ở đây cho tới khi qua đời. 
(Đỗ Dzũng)


Trần Bá Di (1931), nguyên là một tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Thiếu tướng. Ông xuất thân từ những khóa đầu tiên ở trường Võ bị Liên quân do Chính phủ Quốc gia Việt Nam được sự hỗ trợ của Quân đội Pháp mở ra tại nam Cao nguyên Trung phần, chuyên đào tạo sĩ quan hiện dịch để phục vụ cho Quân đội Quốc gia trong Quân đội Liên hiệp Pháp. Ông đã bắt đầu với chức vụ Trung đội trưởng Bộ binh cho đến Tư lệnh phó một Quân đoàn. Ngoài ra, trong thời gian phục vụ quân đội, ông còn được bổ nhiệm vào các chức vụ ở những lĩnh vực khác như Hành chính Quân sự,[2]Quân huấn.[3]

Mục lục


Tiểu sử & Binh nghiệp

Ông sinh ngày 20 tháng 7 năm 1931, trong một gia đình giáo chức tại Mỹ Tho, miền tây Nam phần, Việt Nam. Năm 1944, khi lên Trung học đệ nhất cấp, ông học ở trường Trung học Nguyễn Đình Chiểu, Mỹ Tho đến năm 1949 thi đậu bằng Thành Chung. Sau đó, tiếp tục học lên Trung học Đệ nhị cấp chương trình Pháp ở trường Trung học Lê Quý Đôn, Sài Gòn. Năm 1951, ông tốt nghiệp với văn bằng Tú tài toàn phần (Part II).

Quân đội Liên hiệp Pháp

Giữa năm 1951, thi hành lệnh động viên, ông nhập ngũ vào Quân đội Liên hiệp Pháp, mang số quân: 51/121.114. Theo học khóa 5 Hoàng Diệu tại trường Võ bị Liên quân Đà Lạt, khai giảng ngày 1 tháng 7 năm 1951. Ngày 24 tháng 4 năm 1952 mãn khóa tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy hiện dịch. Ra trường, ông được điều động về Tiểu đoàn 61 Việt Nam giữ chức vụ Trung đội trưởng, đồn trú tại Đức Hòa, Chợ Lớn.

Quân đội Quốc gia Việt Nam

Tháng 10 năm 1952, từ Quân đội Liên hiệp Pháp chuyển sang Quân đội Quốc gia, ông được điều động trở lại trường Võ bị Đà Lạt nhận nhiệm vụ làm Huấn luyện viên khóa 8 Hoàng Thụy Đông. Đến tháng 6 năm 1953, ông chuyển đi làm Chỉ huy phó kiêm Trưởng ban 3 Chi khu biệt lập Mỹ Tho thuộc Phân khu Mỹ Tho. Tháng 4 năm 1954, ông được thăng cấp Trung úy, giữ chức vụ Liên đội trưởng Liên đội 4 thuộc Trung đoàn 2 Vệ binh Nam Việt kiêm Chi khu trưởng Chi khu Chợ Gạo và Chi khu biệt lập Mỹ Tho. Tháng 8 cùng năm, ông được đặc cách thăng cấp Đại úy và được chỉ định làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 582 thuộc Trung đoàn Địa phương 134, kiêm Tiểu khu trưởng Gò Công thuộc Phân khu Mỹ Tho.

Quân đội Việt Nam Cộng hòa

Sau một thời gian chuyển sang cơ cấu mới là Quân đội Việt Nam Cộng hòa (cuối tháng 10 năm 1955, cải danh từ Quân đội Quốc gia). Tháng 6 năm 1956, ông được cử làm phó Phòng 3 trong Bộ tư lệnh Đệ nhất Quân khu Sài Gòn. Giữa năm 1957, ông được cử giữ chức vụ Trưởng phòng 3. Tháng 10 cùng năm, được cử đi du học khóa Bộ binh cao cấp tại trường Fort Benning, Tiểu bang Georgia, Hoa Kỳ. Tháng 4 năm 1958 mãn khóa về nước, ông được cử làm Trưởng phòng 3 Liên Quân khu I + V và Thủ đô Sài Gòn. Đến tháng 9 năm 1959, ông được chỉ định làm Phó Tỉnh trưởng Nội an tỉnh Phong Dinh kiêm Chỉ huy trưởng Cơ quan Quân sự[4]Phong Dinh thuộc Quân khu V.
Tháng 7 năm 1961, ông được thăng cấp Thiếu tá tại nhiệm. Tháng 9 cùng năm, thuyên chuyển trở về đơn vị Bộ binh, ông được cử giữ chức vụ Chỉ huy Trung đoàn 33 thuộc Sư đoàn 21 Bộ binh thay thế Thiếu tá Đặng Đình Thụy.[5]Đến đầu năm 1963, ông được chuyển trở lại tỉnh Phong Dinh và được bổ nhiệm chức vụ Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Phong Dinh. Tháng 6 cùng năm, ông được thăng cấp Trung tá tại nhiệm.
Đầu tháng 5 năm 1965, ông được cử đi du học lớp Chỉ huy Tham mưu cao cấp tại Học viện Chỉ huy và Tham mưu Fort Leavenworth, Tiểu bang Kansas, Hoa Kỳ. Đến tháng 6 năm 1966 mãn khóa về nước, ông được chỉ định làm Tham mưu trưởng trong Bộ Tư lệnh Sư đoàn 9 Bộ binh đóng tại Sa Đéc thay thế Trung tá Khưu Ngọc Tước.[6]Tháng 3 năm 1967, ông được cử làm Phó Tư lệnh Sư đoàn 9 thay thế Trung tá Đặng Đình Thụy.
Tháng giêng năm 1968, ông được thăng cấp Đại tá tại nhiệm. Sau đó, ông chuyển về Cần Thơ giữ chức vụ Tham mưu trưởng Quân đoàn IV và Vùng 4 chiến thuật. Tháng 7 cùng năm, một lần nữa ông trở lại Sa Đéc và được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 9 Bộ binh thay thế Thiếu tướng Lâm Quang Thi được cử đi làm Chỉ huy trưởng trường Võ bị Quốc gia tại Đà Lạt.
Tháng 4 năm 1970, ông được đặc cách ở mặt trận thăng cấp Chuẩn tướng tại nhiệm. Đến tháng 4 năm 1971, ông được cử làm Trưởng đoàn hướng dẫn phái đoàn gồm 37 quân nhân các cấp xuất sắc, thăm viếng Trung Hoa Quốc gia (Đài Loan) trong thời gian 1 tuần lễ.
Ngày Quốc khánh Đệ Nhị Cộng hòa 1 tháng 11 năm 1972, một lần nữa ông được đặc cách ở mặt trận thăng cấp Thiếu tướng tại nhiệm. Hạ tuần tháng 10 năm 1973, ông được lệnh bàn giao chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 9 Bộ binh lại cho Chuẩn tướng Huỳnh Văn Lạc (nguyên Tham mưu trưởng Quân đoàn IV). Tháng 12 cuối năm, ông được chỉ định giữ chức vụ phó Tư lệnh Quân đoàn IV thay thế Chuẩn tướng Nguyễn Thanh Hoàng được xét cho giải ngũ. Ngày quốc khánh 1 tháng 11 năm 1974, ông thuyên chuyển về Sài Gòn và được chỉ định làm Chỉ huy trưởng Quân trường Quang Trung thay thế Thiếu tướng Phạm Văn Phú được bổ nhiệm làm Tư lệnh Quân đoàn II và Quân khu 2.

1975

Sau ngày 30 tháng 4, ra trình diện Ban Quân quản Chính quyền mới, ông bị đưa đi tù lưu đày từ Nam ra Bắc qua các trại giam: Cần Thơ và Hóc Môn (1975-1976). Yên Bái, Hà Tây, Nam Hà (từ năm 1976). Năm 1988 chuyển về trại tù Z30D ở Hàm Tân. Mãi đến ngày 5 tháng 5 năm 1992 ông mới được trả tự do.[7]
Ngày 30 tháng 4 năm 1993, ông được xuất cảnh đi đoàn tụ với gia đình tại Orlando, Florida, Hoa Kỳ.
Ngày 23 tháng 3 năm 2018, ông từ trần tại nơi định cư. Hưởng thọ 87 tuổi.

Huy chương

-Bảo quốc Huân chương đệ tam đẳng và một số huy chương quân sự, dân sự khác.

Gia đình

  • Thân phụ: Cụ Trần Văn Vạng (nguyên là Tổng Giám thị trường Trung học Nguyễn Đình Chiểu, Mỹ Tho).
  • Thân mẫu: Cụ Trần Thị Thạnh.
  • Phu nhân: Bà Đoàn Thị Bé - Ông bà có bốn người con gồm 3 trai, 1 gái (Trưởng nam: Trần Minh Trí, nguyên Thiếu úy Không quân Việt Nam Cộng hòa)
  • Bào đệ:

-Trần Bá Linh (nguyên Thiếu tá Bộ binh Việt Nam Cộng hòa).
-Trần Bá Thanh (nguyên Đại úy Bộ binh Việt nam Cộng hòa).
-Trần Bá Nhân (nguyên Thiếu úy Không Quân Việt Nam Cộng hòa).