Saturday, August 20, 2016

Chuẩn Tướng Trương Hữu Đức (1930-1972) Hy Sinh vì Công Vụ

 Số Quân: 50/125.014
Sanh tháng 8 năm 1930 tại Rạch Giá

1953: Theo học khóa 10 Trần Bình Trọng tại Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt.
1954: Tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu Úy.
1956: Vinh thăng Trung Úy
- Du học khóa 5 căn bản Thiết Giáp tại Trường Thiết Giáp Kỵ Binh Saumur ở Pháp Quốc.
- Thiếu Tá Trưởng Ban 3 Chiến Đoàn Thiết Vận Xa M113 tại Mỹ Tho do Trung Tá Lý Tòng Bá làm Chiến Đoàn Trưởng.
1964: Ngày 11 tháng 8, thăng Thiếu Tá thực thụ.

1968: Tháng 7 hướng dẫn phái đoàn Sĩ Quan QLVNCH gồm 31 khóa sinh theo học khóa 44 Tác Chiến Trong Rừng tại trường Jungle Warfare School của Quân Đội Hoàng Gia Anh Quốc tại Mã Lai Á.
1971: Trung Tá Thiết Đoàn Trưởng Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh ở Long Khánh. Thăng Cấp Đại Tá.
1972: Chiến Đoàn Trưởng Chiến Đoàn 52 (Thiết Giáp và Biệt Động Quân)
Sáng ngày 13 tháng 4 năm 1972 hy sinh trên trực thăng đang bay điều động Lực Lượng Hổn Hợp chiến xa và Biệt Động Quân liên kết với Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù đang hành quân khai thông Quốc Lộ 13 khoảng 3 cây số về hướng Bắc Chơn Thành Bình Long. Bị trúng đạn của địch từ dưới đất bắn lên. Phi hành đoàn vô sự.
- Truy Thăng Chuẩn Tướng.
- Truy Tặng Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương kèm Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu.
- Khóa 27 Võ Bị Đà Lạt khai giảng ngày 28-12-1970 và mãn khóa ngày 27-12-1974 được mang tên khóa Trương Hữu Đức.
1974: Ngày 11 tháng 1. Một buổi lễ truy tặng Huy Chương Ngôi Sao Bạc (SILVER STAR) của Chính Phủ Hoa Kỳ cho Cố Chuẩn Tướng Trương Hữu Đức tại tư thất cố Chuẩn Tướng.
Trương Hữu Đức (1930-1972), nguyên là một sĩ quan Kỵ binh cao cấp của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Đại tá. Ông xuất thân từ trường Võ bị Liên quân thời kỳ Quân đội Quốc gia. Ra trường, ông được chọn về đơn vị Thám thính (sau cải danh thành Thiết giáp). Sau đó tốt nghiệp trường Kỵ binh Pháp. Trong suốt thời gian tại ngũ, ông hoàn toàn phục vụ trong ngành chuyên môn của mình. Năm 1972, ông tử trận trong khi đang thi hành nhiệm vụ. Được truy thăng cấp bậc Chuẩn tướng.

Mục lục


Tiểu sử & Binh nghiệp

Ông sinh vào tháng 8 năm 1930 tại Rạch Giá (Kiên Giang), miền tây Nam phần trong một gia đình điền chủ lớn. Ông đã tốt nghiệp Trung học chương trình Pháp tại Cần Thơ với văn bằng Tú tài bán phần (Part I).

Quân đội Quốc gia Việt Nam

Tháng 9 năm 1953, thi hành lệnh động viên ông nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia, mang số quân: 50/125.014. Theo học khóa 10 Trần Bình Trọng tại trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt, khai giảng ngày 1 tháng 10 nam 1953. Ngày 1 tháng 6 năm 1954 mãn khóa tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy hiện dịch. Ra trường, ông được chọn phục vụ trong đơn vị Thám thính với chức vụ Trung đội trưởng.

  • Tốt nghiệp cùng khóa Võ bị với ông, sau này lên tướng còn có các Chuẩn tướng:

  1. Vũ Văn Giai (nguyên Tư lệnh Sư đoàn 3 bộ binh)
  2. Trần Văn Nhựt (nguyên Tư lệnh Sư đoàn 2 bộ binh)

Quân đội Việt Nam Cộng hòa

Năm 1956, sau một thời gian ngắn chuyển sang phục vụ Quân lực Việt Nam Cộng hòa (đổi tên từ Quân đội Quốc gia). Ngày 1 tháng 6 ông được thăng cấp Trung úy giữ chức Chi đoàn phó. Sau đó ông được cử đi du học khóa 5 căn bản Thiết giáp tại trường Kỵ binh Saumur, Pháp. Năm 1960, ông được thăng cấp Đại úy và được cử làm Chi đoàn trưởng Chi đoàn M.24 thuộc Trung đoàn 1 Thiết giáp.
Sau cuộc đảo chính Tổng thống Ngô Đình Diệm (1 tháng 11 năm 1963). Ngày 3 tháng 11, ông được thăng cấp Thiếu tá và được cử giữ chức vụ Trưởng ban 3 trong Bộ chỉ huy Chiến đoàn Thiết vận xa M.113 ở Mỹ Tho do Trung tá Lý Tòng Bá làm Chiến đoàn trưởng.

Tháng 7 năm 1968, ông được giao nhiệm vụ hướng dẫn phái đoàn sĩ quan trong Quân lực gồm 31 khoá sinh theo học khóa "Tác chiến trong rừng" tại Mã Lai. Đầu tháng 11 cùng năm về nước ông được thăng cấp Trung tá.
Tháng 3 năm 1971, ông được cử làm Thiết đoàn trưởng Thiết đoàn 5 Kỵ binh ở Long Khánh thay thế Thiếu tá Trần Văn Nô. Ngày 1 tháng 11 cùng năm ông được thăng cấp Đại tá tại nhiệm. Mùa hè năm 1972 tại mặt trận Bình Long-An lộc ông được giữ chức vụ Chiến đoàn trưởng Chiến đoàn 52 (chỉ huy Lực lượng Thiết giáp và Biệt động quân).

Tử trận

Sáng ngày 13 tháng 4 năm 1972, ông tử trận trên trực thăng khi đang bay điều động lực lượng hỗn hợp gồm: Thiết giáp, Biệt động quân liên kết với Tiểu đoàn 8 Nhảy dù khai thông Quốc lộ 13 ở Chơn Thành, Bình Long. Ông bị trúng đạn của địch quân từ dưới bắn lên.
Ông được truy thăng cấp bậc Chuẩn tướng và truy tặng Đệ tứ đẳng Bảo quốc Huân chương kèm Anh dũng Bội tinh với nhành dương liễu. Tang lễ được cử hành trong thể với Lễ nghi Quân cách dành cho một vị tướng.
Tên ông được đặt cho khóa 27 trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt (khóa Trương Hữu Đức 1970-1974).