Sunday, August 24, 2025

Trung Tướng Trần Ngọc Tám


 

Trung Tướng Trần Ngọc Tám (1926-2011) nguyên là một tướng lãnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân từ trường Võ bị Liên quân Viễn Đông của Quân đội Pháp mở ra ở Đông Dương, tiếp nhận và huấn luyện thí sinh người bản xứ trở thành sĩ quan để phục vụ Quân đội thuộc địa. Thời gian tại ngũ, ngoài nhiệm vụ chỉ huy đơn vị Bộ binh, ông còn đảm nhiệm những chức vụ thuộc lĩnh vực Tham mưu và Quân huấn. Là một trong số ít sĩ quan được trọng dụng và được thăng cấp tướng ở thời kỳ Đệ Nhất Cộng hòa (Thiếu tướng năm 1958). Ông cũng từng là một nhà ngoại giao giữ vai trò đại sứ ở giai đoạn Đệ Nhị Cộng hòa.

Tiểu sử & Binh nghiệp

Ông sinh ngày 12 tháng 3 năm 1926, trong một gia đình điền chủ giàu có tại Mỹ Tho, miền Tây Nam phần Việt Nam. Thiếu thời, ông học ở Mỹ Tho. Sau lên học ở Sài Gòn. Năm 1944, ông tốt nghiệp Trung học chương trình Pháp với văn bằng Tú tài bán phần (Part I).

Quân đội thuộc địa Pháp

Tháng 7 năm 1946, ông nhập ngũ vào Quân đội Pháp, mang số quân: 46/101.821. Theo học khóa 1 Nguyễn Văn Thinh tại trường Võ bị Liên quân Viễn Đông Đà Lạt, khai giảng ngày 15 tháng 7 năm 1946. Ngày 2 tháng 7 mãn khóa tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy hiện dịch.[2] Ra trường, ông được điều động đi phục vụ tại Trung đoàn 1 Vệ Binh Nam Việt thuộc Quân đội Liên hiệp Pháp, giữ chức vụ Trung đội trưởng. Đầu năm 1949, ông được thăng cấp Trung úy và được cử làm Đại đội trưởng.

Quân đội Quốc gia Việt Nam

Năm 1952, chính thức từ Quân đội Liên hiệp Pháp chuyến sang phục vụ Quân đội Quốc gia, ông được thăng cấp Đại úy lên làm Tiểu đoàn trưởng. Đến cuối năm 1954, sau hiệp định Genève (20 tháng 7) ông được thăng cấp Thiếu tá giữ chức vụ Trưởng phòng Hành quân tại Bộ Tổng tham mưu.[3]

Quân đội Việt Nam Cộng hòa

Đầu năm 1955, bàn giao chức vụ Trưởng phòng hành quân, ông được cử đi làm Chi khu trưởng quận Đức Hòa, tỉnh Long An. Giữa năm ông được thăng cấp Trung tá và được bổ nhiệm làm Tỉnh trưởng Vĩnh Long. Ngày Quốc khánh Đệ Nhất Cộng hòa 26 tháng 10 năm 1956, ông được thăng cấp Đại tá và được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Đệ tứ Quân khu Cao Nguyên thay thế Thiếu tướng Thái Quang Hoàng. Ngày một tháng 10 năm 1957, Đệ Tứ Quân khu cải danh thành Quân đoàn II đặt Bộ Tư lệnh tại Ban Mê Thuột, ông là Tư lệnh đầu tiên của Quân đoàn II tân lập. Cuối tháng 2 năm 1958, ông được thăng cấp Thiếu tướng nhiệm chức. Cuối tháng 7 năm 1959, ông được lệnh bàn giao chức vụ Tư lệnh Quân đoàn II lại cho Thiếu tướng Tôn Thất Đính. Sau đó được cử đi Hoa Kỳ du học lớp Tham mưu cao cấp (khóa 1959-2) thụ huấn 16 tuần tại trường Chỉ huy và Tham mưu Fort Leavenworth, tiểu bang Kansas[4]. Liên tục học thêm 2 lớp nữa là khóa Dân sự vụ tại Fort Gordon, tiểu bang Georgia và khóa Vũ khí cận đại tại Fort Bliss, tiểu bang Texas. Giữa năm 1960, mãn khóa về nước, thay thế Đại tá Đỗ Cao Trí giữ chức vụ Tư lệnh Đệ Tam Quân khu[5] đặt tại Kontum.

Ngày 13 tháng 4 năm 1961, Đệ Tam Quân khu giải tán để sáp nhập vào Quân đoàn II, chuyển về miền Đông Nam phần, ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh Sư đoàn 5 Bộ binh thay thế Đại tá Nguyễn Văn Chuân được cử đi làm Chỉ huy trưởng trường Võ khoa Thủ Đức. Trung tuần tháng 10 cùng năm, ông nhận lệnh bàn giao chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 5 lại cho Đại tá Nguyễn Đức Thắng.[6]

Sau cuộc đảo chính Tổng thống Ngô Đình Diệm ngày 1 tháng 11 năm 1963. Ngày 3 tháng 11, ông được cử làm Chỉ huy trưởng trường Võ khoa Thủ Đức thay thế Đại tá Phan Đình Thứ. Ngày 27 tháng 11, ông tổ chức lễ mãn khóa 15 Cách mạng sĩ quan trừ bị.[7]

Sau cuộc Chỉnh lý nội bộ ngày 30 tháng 1 năm 1964 của tướng Nguyễn Khánh. Tháng 3, ông tổ chức lễ mãn khóa 16 Võ Tánh sĩ quan trừ bị.[8] Đầu tháng 4, ông bàn giao chức Chỉ huy trưởng trường Võ khoa Thủ Đức lại cho Đại tá Bùi Hữu Nhơn, để đi làm Tư lệnh Quân đoàn III & Vùng 3 chiến thuật thay thế Thiếu tướng Lâm Văn Phát.[9] Ngay sau khi nhận chức Tư lệnh Quân đoàn III ông được thăng cấp Trung tướng. Đầu tháng 10 cùng năm, bàn giao Quân đoàn III lại cho Thiếu tướng Cao Văn Viên.[10] Giữa tháng 10, ông được chuyển về Bộ Tổng tham mưu giữ chức vụ Tư lệnh Địa phương quân và nghĩa quân thay thế Thiếu tướng Dương Ngọc Lắm.

Tháng 1 năm 1965, ông rời khỏi chức vụ Tư lệnh Địa phương quân và Nghĩa quân, đồng thời Bộ Tư lệnh đổi thành Bộ Chỉ huy, thay ông làm Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Địa phương quân và Nghĩa quân là Đại tá Trương Văn Xương.[11] Sau đó ông được cử làm Chủ tịch Ủy ban Điều hành Quốc tế Quân viện. Tháng 7 năm 1972, ông được cử đi làm Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Thủ đô Bangkok, Thái Lan sau khi bàn giao Ủy ban Điều hành Quốc tế Quân viện lại cho Trung tướng Nguyễn Văn Mạnh. Tháng 3 năm 1974, ông được triệu hồi về nước và được giải ngũ với lý do phục vụ quân đội trên 20 năm.

1975

Ngày 30 tháng 4, ông cùng gia đình di tản khỏi Việt Nam. Sau đó sang định cư ở hạt Alameda, tiểu bang California, Hoa Kỳ.

Ngày 4 tháng 8 năm 2011, ông từ trần tại nơi định cư. Hưởng thọ 85 tuổi.

Lieutenant General Trần Ngọc Tám (12 March 1926 – 4 August 2011) was an officer of the Army of the Republic of Vietnam.

Tám was born on 12 March 1926.[1]

Military career

He served as the commander of II Corps, which oversaw the Central Highlands region, from 1 October 1957 until 13 August of the next year, when he was replaced by Major general Tôn Thất Đính. He was the first commander of II Corps.[2] He served as the commander of III Corps, which oversaw the region of the country surrounding Saigon from 4 April 1964 until 12 October of the same year, when he was replaced by Major general Cao Văn Viên.[2][3]

On 8 June 1964 he told his subordinate commanders that the government was losing the war. Over the past two months, the ARVN had lost 489 dead in III Corps compared to 328 VC. He blamed the officer corps' lack of aggressiveness, knowledge, and leadership for the situation.[4]: 182–3 

Tám later served as Chairman of the Free World Military Assistance Organisation.

Tám died on 4 August 2011, at the age of 85.[1]

 National honours

Foreign honours









Danh sách tướng lãnh Việt Nam Cộng hòa tốt nghiệp Đại học Chỉ huy và Tham mưu Quân đội Hoa Kỳ

Hai mươi năm (1955-1975) là thời gian tồn tại của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, trước đó với danh xưng Quân đội Việt Nam Cộng hòa (1955-1965) và là hậu thân của Quân đội Quốc gia Việt Nam (1950-1955). Mặc dù với thời gian ngắn ngủi này, Quân đội VNCH cũng đã đào tạo được một số sĩ quan cao cấp, trong đó có 173 vị được phong cấp tướng[1]. Đa số sĩ quan cấp tướng đều xuất thân từ những trường võ bị do chính phủ Pháp mở ra tại Pháp và các nước thuộc địa Bắc Phi hoặc các trường do Quân đội Pháp mở ra ở Đông Dương. Số nhiều xuất thân từ các trường võ bị và trừ bị do Chính phủ Quốc gia Việt Nam được sự hỗ trợ của Quân đội Pháp mở ra tại 3 miền Bắc, Trung, Nam từ cuối thập niên 40 của thế kỷ trước[2].

Kể từ năm 1955, nhằm nâng cao trình độ chỉ huy và tham mưu cho các sĩ quan trong quân đội, nên hàng năm chính phủ của hai nền đệ nhất và đệ nhị Cộng hòa đã gửi các sĩ quan cấp tá và cấp tướng đi tu nghiệp tại Đại học Chỉ huy và Tham mưu Quân đội Hoa Kỳ (US Army Command and General Staff College) Fort Leavenworth thuộc Tiểu bang Kansas, Hoa Kỳ. Mỗi năm có từ một đến nhiều sĩ quan VNCH được nhận tu nghiệp, ít nhất là khóa 1961 - 2 (khóa này chỉ có 1 học viên), nhiều nhất là hai khóa 1966 - 1 và 1967 - 1 (mỗi khoá có đến 26 học viên). Những sĩ quan này phải có cấp bậc từ Thiếu tá trở lên. Từ tháng 8 năm 1955 cho đến đầu năm 1975 có 237 sĩ quan trung và cao cấp được đi du học ở Học viện nói trên với tổng số là 36 khóa. Trong số này có 74 sĩ quan sau này là tướng lãnh chỉ huy và tham mưu trong quân đội VNCH, số còn lại (163 sĩ quan) về sau hầu hết đều lên đến cấp Đại tá và giữ những chức vụ cao trong quân đội.

Sau đây là danh sách sĩ quan Quân lực VNCH tốt nghiệp Học viện Fort Leavenworth được phong cấp tướng.

Danh sách

SttHọ và tên
(Thời gian sống)
Xuất thân
Cấp bậc
năm tu nghiệp
Niên khóa
Thời gian
Cấp bậc
Chức vụ sau cùng
Chú thích
1[3]
Vĩnh Lộc
(1923-2009)
Võ bị Lục quân Pháp[4]
Thiếu tá
1955 - 1956
42 tuần[5]
Trung tướng
Tổng Tham mưu trưởng
Tổng Tham mưu trưởng cuối cùng của Quân lực VNCH.
2
Nguyễn Bảo Trị
(1929)
Võ khoa Nam Định[6]
Trung tướng
Tổng cục trưởng
Tổng cục Quân huấn.
3
Bùi Đình Đạm
(1926-2009)
Võ bị Huế K1[7]
1956 - 1957
42 tuần
Thiếu tướng
Tổng Giám đốc
Tổng nha Nhân lực.
4
Cao Văn Viên
(1921-2008)
Võ bị Vũng Tàu[8]
Đại tướng
Tổng Tham mưu trưởng
Giữ chức vụ Tổng Tham mưu trưởng với thời gian lâu nhất của QLVNCH.
5
Nguyễn Văn Chuân
(1923-2002)
Võ bị Huế K1
Trung tá
1957 - 2
16 tuần[9]
Thiếu tướng
Tư lệnh Quân đoàn I
Giải ngũ năm 1966.
6
Nguyễn Hữu Có
(1925-2012)
Võ bị Huế K1
Đại tá
Trung tướng
Phụ tá
Tổng trưởng Quốc phòng
Giải ngũ năm 1967, cuối tháng 4/1975 tái ngũ giữ chức vụ Cố vấn cho Tổng Tham mưu trưởng Vĩnh Lộc.
7
Tôn Thất Đính
(1926-2013)
Võ bị Huế K1
Trung tướng
Tư lệnh Quân đoàn I
Giải ngũ năm 1966.
8
Dương Ngọc Lắm
(1924-1973)
Võ bị Viễn Đông[10]
Trung tá
Thiếu tướng
Phụ tá Đặc biệt
Phủ Thủ tướng
Giải ngũ năm 1964.
9
Bùi Hữu Nhơn
(1928)
Võ bị Viễn Đông
Thiếu tướng
Uỷ ban Điều hành
Quốc tế Quân viện
Giải ngũ năm 1968
10
Nguyễn Văn Thiệu
(1923-2001)
Võ bị Huế K1
Trung tướng
Tổng thống VNCH
Giải ngũ năm 1967
11
Đặng Thanh Liêm
(1925-2005)
Võ bị Viễn Đông
1957 - 1958
42 tuần
Thiếu tướng
Tư lệnh Sư đoàn 5/BB
Giải ngũ năm 1965.
12
Đặng Văn Quang
(1929-2011)
Võ bị Huế K1
Trung tướng
Cố vấn
An ninh Quốc gia
13
Tôn Thất Xứng
(1923-2018)
Võ bị Huế K1
Đại tá
Thiếu tướng
Chỉ huy trưởng
Đại học Quân sự[11]
Giải ngũ năm 1967.
14
Dương Văn Đức
(1925-2000)
Võ bị Viễn Đông
Thiếu tướng
1958 - 1
16 tuần[12]
Trung tướng
Tư lệnh Quân đoàn IV
Giải ngũ năm 1964.
15
Nguyễn Khánh
(1927-2013)
Võ bị Viễn Đông
Đại tá
Đại tướng
Thủ tướng Chính phủ
Giải ngũ năm 1965
16
Lữ Lan
(1927-2021)
Võ bị Đà Lạt K3
Trung tá
Trung tướng
Chỉ huy trưởng
Cao đẳng Quốc phòng
17
Thái Quang Hoàng
(1918-2013)
Võ bị Tông Sơn Tây
Trung tướng
1958 - 2
16 tuần
Trung tướng
Tư lệnh Biệt khu Thủ đô
Giải ngũ năm 1965.
18
Nguyễn Văn Kiểm
(1924-1969)
Võ bị Viễn Đông
Trung tá
Thiếu tướng
Tham mưu trưởng
Biệt bộ Phủ Tổng thống
19
Dương Văn Minh
(1916-2001)
Võ bị Thủ Dầu Một[13]
Trung tướng
Đại tướng
Tổng thống VNCH
Tổng thống cuối cùng của VNCH.
20
Trần Văn Minh
(1923-2009)
Võ bị Tông Sơn Tây
Trung tướng
Tổng trưởng Quân lực
Giải ngũ năm 1974.
21
Phạm Văn Đổng
(1919-2008)
Võ bị Móng cái
Đại tá
1958 - 1959
42 tuần
Thiếu tướng
Tổng trưởng
Bộ Cựu chiến binh
Giải ngũ năm 1965.
22
Nguyễn Hữu Hạnh
(1926-2019)
Võ bị Vũng Tàu
Trung tá
Chuẩn tướng
Phụ tá
Tổng Tham mưu trưởng
Giải ngũ năm 1974, cuối tháng 4/1975 tái ngũ phục vụ chính quyền Tổng thống Dương Văn Minh.
23
Cao Hảo Hớn
(1936-2010)
Võ bị Viễn Đông
Trung tướng
Cố vấn Quân sự
Phủ Tổng thống
24
Lâm Văn Phát
(1920-1998)
Võ bị Viễn Đông
Trung tướng
Tư lệnh Biệt khu Thủ đô
Giải ngũ năm 1965, cuối tháng 4/1975 tái ngũ.
25
Nguyễn Đức Thắng
(1930-2020)
Võ khoa Nam Định
Trung tướng
Phụ tá Kế hoạch
Tổng Tham mưu trưởng
Giải ngũ năm 1973.
26
Huỳnh Văn Cao
(1927-2013)
Võ bị Huế K2
1959 - 1
16 tuần
Thiếu tướng
Tư lệnh Quân đoàn I
Giải ngũ năm 1966.
27
Lê Văn Kim
(1918-1987)
Trường Pháo binh Pháp
Thiếu tướng
Trung tướng
Phụ tá Tổng Tư lệnh QLVNCH
Giải ngũ năm 1965.
28
Hoàng Xuân Lãm
(1928-2017)
Võ bị Đà Lạt K3
Trung tá
Trung tướng
Phụ tá Tổng trưởng Quốc phòng
29
Linh Quang Viên
(1918-2013)
Trung tướng
Đặc trách Thanh tra
Quân đoàn II và IV
Giải ngũ năm 1973.
30
Mai Hữu Xuân
(1919-?)
Liêm phóng Pháp
Thiếu tướng
Trung tướng
Phụ tá Phó Tổng Tư lệnh QLVNCH
Giải ngũ năm 1965.
31
Huỳnh Văn Lạc
(1927-2014)
Võ khoa Thủ Đức K3[14]
Thiếu tá
1959 - 2
16 tuần
Chuẩn tướng
Tư lệnh Sư đoàn 9/BB
32
Nguyễn Ngọc Lễ
(1918-1972)
Trường HSQ Pháp[15]
Trung tướng
Trung tướng
Chánh thẩm Tòa án
Mặt trận Quân sự
Giải ngũ năm 1965
33
Nguyễn Thanh Sằng
(1926-2005)
Võ bị Huế K2
Thiếu tá
Thiếu tướng
Tư lệnh Tiền phương
Quân đoàn IV
Giải ngũ năm 1973
34
Trần Ngọc Tám
(1926-2011)
Võ bị Viễn Đông
Thiếu tướng
Trung tướng
Tư lệnh ĐPQ và NQ
Giải ngũ năm 1974.
35
Đỗ Cao Trí
(1929-1971)
Nước Ngọt Vũng Tàu[16]
Đại tá
Trung tướng
Tư lệnh Quân đoàn III
Tử nạn trực thăng tại Tây Ninh, được truy thăng Đại tướng.
36
Nguyễn Duy Hinh
(1929)
Võ khoa nam Định
Thiếu tá
1959 - 1960
42 tuần
Thiếu tướng
Tư lệnh Sư đoàn 3/BB
37
Phan Đình Thứ
(1919-2002)
Võ bị Lục quân Pháp
Đại tá
Chuẩn tướng
Tư lệnh phó Quân đoàn II
Giải ngũ năm 1973.
38
Trần Thiện Khiêm
(1925-2021)
Võ bị Viễn Đông
1960 - 1
16 tuần
Đại tướng
Thủ tướng Chính phủ
Tổng trưởng Quốc phòng
39
Hồ Văn Tố
(1915-1962)
Võ bị Huế K2
Thiếu tướng
Thiếu tướng
Chỉ huy trưởng Liên trường
Võ khoa Thủ Đức
40
Võ Dinh
(1929-2017)
Võ bị Đà Lạt K3
Thiếu tá
1960 - 2
16 tuần
Chuẩn tướng
Tham mưu trưởng
Bộ Tư lệnh Không quân
41
Nguyễn Văn Mạnh
(1921-1994)
Võ bị Huế K2
Trung tá
1960-1961
42 tuần
Trung tướng
Tổng Tham mưu phó
Bộ Tổng Tham mưu
42
Nguyễn Vĩnh Nghi
(1932)
Võ bị Đà Lạt K5
Thiếu tá
1961 - 1
16 tuần
Trung tướng
Tư lệnh phó Quân đoàn III
43
Nguyễn Xuân Trang
(1924-2015)
Nước Ngọt Vũng Tàu
Đại tá
Thiếu tướng
Tham mưu phó
Bộ Tổng Tham mưu
44
Phạm Xuân Chiểu
(1920-2018)
Võ bị Lục quân
Chapa Yên Bái
Thiếu tướng
1961 - 1962
42 tuần
Trung tướng
Chủ tịch Hội đồng
Quốc gia Lập pháp
Giải ngũ năm 1965.
45
Trần Thanh Phong
(1926-1972)
Võ bị Huế K2
Trung tá
1962 - 1
16 tuần
Thiếu tướng
Chánh Văn phòng
Uỷ ban Trung ương
Tử nạn máy bay tại Phú Yên, được truy thăng Trung tướng.
46
Phạm Ngọc Sang
(1931-2002)
Võ khoa Thủ Đức K1
Chuẩn tướng
Tư lệnh Sư đoàn 6/KQ
47
Nguyễn Văn Thiện
(1928-1970)
Võ khoa Thủ Đức K2
Chuẩn tướng
Tư lệnh Biệt khu
Quảng Nam-Đà Nẵng
48
Phạm Quốc Thuần
(1926)
Võ bị Đà Lạt K5
Thiếu tá
1962 - 2
16 tuần
Trung tướng
Chỉ huy trưởng
Trường HSQ Đồng Đế[17]
49
Ngô Dzu
(1926-2006)
Võ bị Đà Lạt K2
Trung tá
1963 - 1
16 tuần
Trung tướng
Trưởng đoàn Quân sự
Ban Liên hợp 4 bên
50
Phạm Đăng Lân
(1927-2017)
Nước Ngọt Vũng Tàu
Chuẩn tướng
Cục trưởng Cục Công binh
Giải ngũ năm 1965.
51
Phạm Hữu Nhơn
(1928)
Võ khoa Nam Định
Thiếu tá
Chuẩn tướng
Trưởng phòng 7
Bộ Tổng Tham mưu
52
Đỗ Kế Giai
(1929-2016)
Võ bị Đà Lạt K5
1963 - 2
16 tuần
Thiếu tướng
Chỉ huy trưởng
Lưc lượng Biệt động quân
53
Nguyễn Văn Hiếu
(1929-1975)
Võ bị Đà Lạt K3
Thiếu tướng
Tư lệnh phó Quân đoàn III
Tử nạn do bị cướp cò súng lục tại Bộ Tư lệnh Quân đoàn III, Biên Hòa, được truy thăng Trung tướng.
54
Nguyễn Xuân Thịnh
(1929-1998)
Võ bị Đà Lạt K3
Trung tá
Trung tướng
Tư lệnh Pháo binh
55
Đào Duy Ân
(1932)
Võ bị Đà Lạt K4
Thiếu tá
1964 - 1
16 tuần
Thiếu tướng
Tư lệnh phó Quân đoàn III
56
Lâm Quang Thi
(1931-2021)
Võ bị Đà Lạt K3
Trung tá
Trung tướng
Tư lệnh phó Quân đoàn I
57
Lâm Quang Thơ
(1931-1985)
Võ bị Đà Lạt K3
Thiếu tá
Thiếu tướng
Chỉ huy trưởng
Võ bị Đà Lạt[18]
58
Trương Quang Ân
(1932-1968)
Võ bị Đà Lạt K4
1964 - 2
16 tuần
Chuẩn tướng
Tư lệnh Sư đoàn 23/BB
Tử nạn trực thăng tại Đức Lập (Quảng Đức), được truy thăng Thiếu tướng
59
Võ Văn Cảnh
(1922-1994)
Võ bị Đập Đá K3[19]
Thiếu tướng
Thứ trưởng Bộ Nội vụ
60
Trần Tử Oai
(1921-1999)
Võ bị Tông Sơn Tây
Thiếu tướng
1964-1965
42 tuần
Thiếu tướng
Chỉ huy trưởng
Võ bị Đà Lạt
Giải ngũ năm 1965.
61
Phan Đình Soạn
(1929-1972)
Võ khoa Thủ Đức K1
Trung tá
1965 - 1
16 tuần
Chuẩn tướng
Tư lệnh phó Quân đoàn I
Tử nạn trực thăng tại Đà Nẵng, được truy thăng Thiếu tướng.
62
Lê Văn Thân
(1932-2005)
Võ bị Đà Lạt K7
Thiếu tá
Chuẩn tướng
Tư lệnh phó Quân đoàn II
63
Lê Ngọc Triển
(1927)
Võ bị Huế K2
Trung tá
Thiếu tướng
Tham mưu phó
Bộ Tổng Tham mưu
64
Trần Văn Cẩm
(1927-2009)
Võ bị Huế K2
1966 - 1
16 tuần
Chuẩn tướng
Tư lệnh Sư đoàn 23/BB
65
Nguyễn Chấn
(1931)
Võ khoa Nam Định
Chuẩn tướng
Cục trưởng Cục Công binh
66
Trần Bá Di
(1931-2018)
Võ bị Đà Lạt K5
Thiếu tướng
Chỉ huy trưởng
TTHL Quang Trung
67
Lý Bá Hỷ
(1923-2015)
Võ bị Đà Lạt K3
Chuẩn tướng
Tư lệnh phó
Biệt khu Thủ đô
68
Nguyễn Văn Chức
(1928-2018)
Võ bị Vũng Tàu
1967 - 1
16 tuần
Chuẩn tướng
Cục trưởng Cục Công binh
Kiêm Tổng cục trưởng Tổng cục Tiếp vận vào ngày 29/4/1975.
69
Nghiêm Văn Phú
(1928-2008)
HQ Nha Trang K2[20]
Phó Đề đốc
Chuẩn tướng
Tư lệnh Lực lượng
Tuần thám 212
70
Trương Bảy
(1930-2013)
Võ khoa Thủ Đức K1
Đại tá
1968-1969
42 tuần
Chuẩn tướng
Phụ tá Tư lệnh
Cảnh sát Quốc gia
Nguyên là sĩ quan quân đội biệt phái sang Bộ Nội vụ.
71
Chương Dzềnh Quay
(1928)
Võ bị Đà Lạt K5
1969 - 1970
42 tuần
Chuẩn tướng
Tham mưu trưởng
Quân đoàn IV
72
Ngô Hán Đồng
(1930-1972)
Võ khoa Thủ Đức K2
1970 - 1971
42 tuần
Đại tá
Chỉ huy trưởng
Pháo binh Quân đoàn I
Tử nạn trực thăng tại Đà Nẵng, được truy thăng Chuẩn tướng.
73
Lê Nguyên Vỹ
(1933-1975)
Võ bị Địa phương
Trung Việt K2
Chuẩn tướng
Tư lệnh Sư đoàn 5/BB
Tự sát ngày 30/4/1975.
74
Trần Quang Khôi
(1930)
Võ bị Đà Lạt K6
1972 - 1973
42 tuần
Chuẩn tướng
Tư lệnh Lữ đoàn 3
Kỵ binh Thiết giáp