Wednesday, November 3, 2021

Đại Sứ VNCH Bùi Diễm (Hình ảnh, Videos, bài viết và nhiều tài liệu đính kèm).

Tiểu Sử Đại Sứ Bùi Diễm

Ông Bùi Diễm sinh ngày 1 tháng 10 năm 1923 tại Phủ Lý, Hà Nam (Bắc phần). Ông quê ở Hà Nam, Việt Nam. Thân phụ ông vừa học giả vừa là nhà nho Ưu Thiên Bùi Kỷ, dòng dõi phó bảng Bùi Văn Quế và Bùi Ân Niên.

Ông Bùi Kỷ theo Việt Minh và về sau là một nhân sĩ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Ông lập gia-đình với bà Vũ thị Kim-Ngọc, kém ông 5 tuổi, suốt 77 năm, sinh được 3 người con : Bùi Ngọc-Lưu, Bùi Ngọc-Giao và Bùi Hân.

Ông có người cô ruột Bùi Thị Tuất, là phu nhân của học giả Trần Trọng Kim, tức thủ tướng Việt Nam dưới thời vua Bảo Đại (1945).

Lúc nhỏ ông học sử tại Trường Tư Thục Thăng Long và Trường Bưởi (sau này gọi là Chu Văn An).

Ông tốt nghiệp ngành toán học tại trường Đại Học Khoa Học Hà Nội.

Ông lớn lên trong bối cảnh của một Việt Nam còn nằm dưới sự cai trị của chính quyền thực dân Pháp cũng như trải nghiệm sự chiếm đóng của người Nhật trong thời Đệ Nhị Thế Chiến. 

Hoạt động chính trị

Ông cùng gia đình di cư vào nam trước khi Hiệp định Geneva năm 1954 chia đôi Việt Nam thành hai thực thể chính trị Việt Nam Dân Chủ Công Hòa (Bắc Việt Nam) và Việt Nam Cộng Hòa (Nam Việt Nam).

Ông hoạt động chính trị từ thời học trường Bưởi, vận động cho chính phủ Trần Trọng Kim và vào Đảng Đại Việt năm 1944 do lời giới thiệu của một người bạn là ông Đặng Văn Sung.

Năm 1945 ông tham gia Trường Lục quân tại Yên bái, được nửa chừng thì bỏ dở khi trường chuyển về Sa Pa.

Ông rời chính trường cho tới khi nền Đệ Nhất Cộng hòa Việt Nam chấm dứt.

Ông thành lập công ty Tân Việt Điện Ảnh và sản xuất bộ phim Chúng Tôi Muốn Sống, nói về vấn đề cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam. Cuốn phim do Đạo diễn Vĩnh Noãn và một người đạo diễn Philippines tên là Manuel Conde, Giám đốc sản xuất là Bùi Ngọc Giao thực hiện với kỹ thuật của nghệ sĩ Totoy Torrente, và sự cộng tác của hệ thống quân đội Việt Nam Cộng Hòa, được khởi quay vào tháng 10/1956. Nam tài tử chính là Lê Quỳnh. Phim được trình chiếu miễn phí ở miền Nam Việt Nam vào khoảng năm 1956.

Những bộ phim do Ông và hãng Tân Việt thực hiện tạo tiếng vang nhưng lại thua lỗ về tài chánh, khiến hãng phim sau đó phải đóng cửa.

Ông cũng không còn giữ cho mình bất kỳ một tài liệu nào, ngoại trừ vài năm trước đây, đạo diễn Vĩnh Noãn trước khi mất đã gửi tặng Ông cuốn DVD Chúng Tôi Muốn Sống được ai đó phát hành ngoài thị trường.

Sau khi quay xong bộ phim Chúng Tôi Muốn Sống, Ông Bùi Diễm mời đạo diễn Lê Dân thực hiện cuốn phim Hồi Chuông Thiên Mụ vào tháng 7 năm 1957 với sự diễn xuất của nam tài tử Lê Quỳnh cùng với sự góp mặt lần đầu của Kiều Chinh bước vào thế giới điện ảnh.

Bộ phim được trình chiếu lần đầu tiên đó là ngày 8 tháng 1 năm 1959 tại 4 rạp Nam Quang, Rạng Đông, Thanh Bình và Huỳnh Long.

Năm 1963 ông thành lập tờ Saigon Post, một trong những tờ báo tiếng Anh đầu tiên của nền Công Hòa Việt Nam.

Sau biến cố tháng 11 năm 1963, Ông Bùi Diễm trở lại chính trường và năm 1965 làm bộ trưởng Phủ Thủ tướng dưới thời chính phủ Phan Huy Quát.

Sau khi Phan Huy Quát tuyên bố từ chức vào ngày 11 Tháng 6, 1965, ông nhận lời mời của Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương Nguyễn Cao Kỳ về làm Phụ Tá Đặc Biệt đặc trách các vấn đề kế hoạch có liên quan đến ngoại viện để tiếp tục giữ vững mối giao hảo với Hoa Kỳ.

Ngoài việc lo việc xếp đặt toàn bộ chương trình cuộc họp thượng đỉnh ở Honolulu, ông còn được ủy nhiệm thảo một bản diễn văn chánh thức để Thủ Tuớng Nguyễn Cao Kỳ đọc tại hội nghị thượng đỉnh, cùng những bài diễn văn khác cho ông Nguyễn Cao Kỳ. Lúc này ông hoàn toàn hòa mình vào làm việc với một chánh phủ quân nhân, và đưa ra vấn đề cần phải chuyển hướng chánh phủ để dẫn đến một chánh phủ dân chủ hợp hiến.

Sau cuộc họp thượng đỉnh ở Honolulu tháng 8 năm 1966, ông càng đi sâu vào các quyết định ngoại giao. Ông được bổ nhiệm làm Phụ Tá Ngoại Trưởng kiêm Phụ Tá Đặc Biệt của Thủ Tướng.

Sau cuộc họp thượng đỉnh Manila với những xích mích ngấm ngầm giữa ông với những người trong giới quân nhân đã khiến ông hao tổn khá nhiều tinh thần. Ông quyết định từ chức và quyết định này của ông đã dẫn đến việc ông được bổ nhiệm làm Đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Hoa Kỳ thay thế đại sứ Vũ Văn Thái, từ năm 1967 đến năm 1972, và Đại sứ lưu động từ năm 1973 cho tới khi kết thúc cuộc chiến vào tháng 4 năm 1975.

Ông từng góp ý kiến với các ông Thiệu, ông Kỳ và các vị tướng lãnh khác về phản ứng của Hoa Kỳ với Việt Nam.

Đặc biệt vào ngày 10 tháng 3-1967, ông Nguyễn Văn Thiệu và ông Nguyễn Cao Kỳ triệu tập một buổi họp chánh thức ở dinh độc lập. Cuộc họp bao gồm tất cả Bộ Trưởng và các Tư Lệnh quan trọng trong giới lãnh đạo quân sự. Ông Nguyễn Văn Thiệu giới thiệu ông Bùi Diễm là "Một nhân vật của Hoa Thịnh Đốn."

Trong suốt thời gian làm đại sứ ông đã đem những nhận xét, hiểu biết về Hoa kỳ, đến chính quyền VNCH. Những bản lượng định tình hình chính trị ông gửi về Sài Gòn, bao gồm tất cả những điều ông tổng kết sau những buổi thảo luận của ông cùng với cả giới báo chí lẫn chính quyền Hoa Kỳ. Ông đưa ra cả những suy luận cùng những suy luận của nhiều nhân vật cao cấp khác trong giới quân sự Hoa Kỳ. Ông trình bày những điểm đặc biệt của chính trị Hoa Kỳ đến Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ.


Hiệp Định Ba Lê

Tháng 5, 1972 ông từ chức đại sứ VNCH tại Hoa Thịnh Đốn quay về Sài Gòn sau một chuyến du ngoạn dài hai tháng ở Châu Âu.

Sau hiệp định Ba Lê TT Nguyễn Văn Thiệu cử ông làm đặc sứ.

Ông được gửi đi nhiều công tác khác nhau ở Á Châu, Âu Châu và Hoa Kỳ. Ông cho rằng việc ông có thể gặp gỡ TT Nguyễn Văn Thiệu cũng là một dịp tốt để ông có thể đóng góp ý kiến phần nào vào việc xây dựng quốc gia.

Ông bắt đầu soạn thảo một kế hoạch chỉ rõ phương hướng cho các công việc của Việt Nam sau giai đoạn Hiệp Định Ba Lê nhằm chuyển hướng ngoại giao của chính phủ VNCH để xóa tan những chỉ trích hiếu chiến và độc tài mà dư luận thế giới đã gán cho VNCH, và cũng để xây dựng hình ảnh của VNCH như một quốc gia độc lập, có chủ quyền và được cả thế giới công nhận.

Từ giữa năm 1973 cho đến năm 1974, ông thường xuyên đến Hoa Kỳ để theo dõi các diễn biến ở Hoa Thịnh Đốn và làm tất cả mọi việc có thể làm được để giữ viện trợ khỏi bị cắt bỏ.

Là đại sứ tại Hoa Kỳ, ông đã có cơ hội làm việc với những chính khách Việt Nam và Hoa Kỳ như Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Lyndon B. Johnson, Richard Nixon, William Westmoreland, Robert McNamara, Henry Kissinger, Clark Clifford, Maxwell Taylor, Ellsworth Bunker, Walt Rostow, Alexander Haig, Jr., Dean Rusk, và nhiều nhân vật khác.

Ông cũng chứng kiến sự nổi dậy của phong trào phản chiến tại Hoa Kỳ, cuộc đàm phán hòa bình tại Paris, và góp phần vào việc vận động cuối cùng để tìm 700 triệu đô viện trợ quân sự để miền Nam Việt Nam có phương tiện chống lại cuộc xâm lăng của quân đội Bắc Việt, tuy nhiên cuối cùng số tiền Hoa Kỳ có thể viện trợ cho VNCH là 400 triệu Mỹ kim.


Tại Hải ngoại

Sau 30 tháng 4 năm 1975, Ông Bùi Diễm cùng gia đình tỵ nạn và định cư tại Hoa Kỳ.

Tại Hoa Kỳ, ông đã từng làm việc và là học giả tại Trung tâm Nghiên cứu Học thuật Quốc tế Woodrow Wilson, Viện Doanh nghiệp Hoa Kỳ (American Enterprise Institute), cũng như Viện Nghiên Cứu Đông Dương tại Đại học George Mason.

Ông là tác giả cuốn tự truyện lịch sử về chiến tranh Việt Nam, hồi ký chính trị có tựa "Gọng Kìm Lịch Sử". Ấn bản đầu tiên của tác phẩm này được viết bằng tiếng Anh với tựa The Jaws of History được phát hành năm 1987. Năm 2000, ông viết "Gọng Kìm Lịch Sử" do cơ sở Phạm Quang Khai xuất bản dựa theo sau bản tiếng Anh chứ không phải dịch từ bảng tiếng Anh ra tiếng Việt.

Cuốn sách thứ hai là cuốn Vietnamese Economy and Its Transformation to an Open Market System xuất bản năm 2004.

Ông là một thành viên trong Ban Cố vấn của National Congress of Vietnamese Americans (NCVA, Nghị hội Toàn quốc người Việt tại Hoa Kỳ). Trong thời gian này Ông thường có mặt trong các buổi vận động cho chương trình HO do Bà Khúc Minh Thơ phối hợp tổ chức tại Quốc Hội Hoa Kỳ.

Ông vẫn hoạt động trong Đảng Đại Việt và giữ chức Chủ tịch Ban chấp hành Trung ương của Ðại Việt Cách mạng Ðảng.

Ông Bùi Diễm từng xuất hiện với vai trò nhân chứng trong các tập phim Chiến tranh Việt Nam (phim tài liệu) do đài PBS (Mỹ) sản xuất vào năm 2017.

Vì đã tham gia và chứng kiến nhiều sự thay đổi và thăng trầm của lịch sử, đặc biệt trong giai đoạn Hoa Kỳ trực tiếp can thiệp vào cuộc chiến tại Việt Nam, nên ông Bùi Diễm có những dữ liệu, ký ức, và suy nghĩ rất đáng kể về lịch sử Việt Nam.

Từ những năm đầu của SBTN mới thành lập, Đại Sứ Bùi Diễm hợp tác thường xuyên với Nhà Báo Phạm Trần qua các cuộc hội hội thảo chính trị bàn tròn cùng Gs Nguyễn Mạnh Hùng, Cựu Đại Tá Nguyễn Cao Quyền, Ông Nguyễn Tự Cường và Bình Luận Gia Đại Dương. Ngoài ra Ông còn tham gia vào Chương Trình Lịch Sử Cận Đại với Kim Nhung SBTN. Sau này Ông cùng ban biên tập Bản Tin Hoa Thịnh Đốn thực hiện nhiều chương trình phân tích tình hình chính trị hoa kỳ đặc biệt về ngoại giao và quân sự tại Á Châu và Âu Châu.

Riêng sinh hoạt với giới trẻ Ông rất chịu khó thảo luận các đề tài lịch sử với các em hướng đạo. Ông thường hợp tác với Minh Thuý và Vạn Lý để tổ chức các buổi thảo luận song ngữ này. Được biết thuở thiếu thời Ông gia nhập Hướng Đạo và thường xuyên đi sinh hoạt với Ls Trần Văn Tuyên. Vào cuối đời Ông thường hay tâm sự Ông rất trân quý sự dấn thân vô vụ lợi của các hướng đạo sinh.

Đại Sứ Bùi Diễm qua đời lúc 11:00 sáng Chúa Nhật 24 tháng 10 năm 2021 nhằm ngày 19 tháng Chín năm Tân Sửu, hưởng đại thọ 99 tuổi.

Jimmy phỏng vấn Đại Sứ Bùi Diễm

 

 Nhìn Lại Lịch Sử Việt Nam Cận Đại Special Guest: Ông Bùi Diễm (Cựu Đại Sứ VNCH) 

Producer: Jimmy-Nhựt Hà 

Camera: Hồ Đoàn 

Graphic Design: Trường Giang Editor: Thông Hồ & Jimmy Recording At: Maryland 

Chân Thành Cảm Tạ: • Ông Bùi Diễm & Gia đình • Anh Boone • Anh Võ Thành Nhân (SBTN DC) • Anh Nguyễn Lập Hậu

 Phim Chúng Tôi Muốn Sống

    

NHỚ BÁC BÙI DIỄM

Tháng 5 năm 2015, sau chuyến đi Washington DC vào gặp Tổng thống Obama nhân ngày Tự do Báo chí Quốc tế (01-5-2015), tôi nhận được tin nhắn từ nhà báo Ngô Nhân Dụng hẹn tới nhà dự buổi gặp mặt một số thân hữu.

Khách mời là các nhà văn, nhà báo và đặc biệt có bác Bùi Diễm, vị Đại sứ cuối cùng của chính quyền VNCH tại Mỹ. Chúng tôi ngồi trong khu vườn sau nhà anh Ngô Nhân Dụng nói chuyện.

Tôi nghe tiếng Bác đã lâu nhưng nay mới được gặp mặt, thật ngạc nhiên là ở tuổi trên 90, bác ăn mặc rất chỉn chu, phong thái thanh thoát nhẹ nhàng. Biết tôi vừa có cuộc gặp với Tổng thống Obama , Bác hỏi thăm về chuyến đi của tôi đến White House, những kiến nghị của tôi với Tổng thống Obama về Tự do Báo chí ở VN .

Tôi cũng chia sẻ với Bác về tình hình trong nước, về những dự tính phát triển mở rộng không gian tự do ngôn luận và bảo vệ các nhà báo, nhà bất đồng chính kiến trong nước. Bác chăm chú lắng nghe và góp ý cho tôi, Bác nói năng nhẹ nhàng, sâu sắc và cũng pha chút hài hước.

Tôi vẫn nhớ khi anh Trần Triết chụp hình cho cả nhóm, vô tình tôi ngồi bên phải Bác, Bác cũng yêu cầu anh Trần Triết chụp thêm cho tôi với Bác. Khi chụp hình xong, Bác hỏi tôi : Khi anh lên gặp Tổng thống Obama anh ngồi bên phải Tổng thống, hôm nay gặp tôi anh cũng ngồi bên phải, ý anh thế nào ? Tôi nói nếu đây là Chính phủ lâm thời thì tôi sẽ ngồi bên phải Bác. Cả hai cùng cười sảng khoái.

Nhìn Bác đã hơn 90 tuổi mà vẫn đĩnh đạc, thanh thoát, đúng phong thái của một nhà ngoại giao kỳ cựu.

Một thoáng suy nghĩ bất chợt trong tôi, năm nay Bác đã trên 90 tuổi, quỹ thời gian không còn nhiều mà cuộc chiến với cộng sản vẫn còn dài phía trước, không biết Bác có kịp trở lại quê nhà cùng chúng tôi không. Nhưng nhìn phong thái bình thản đĩnh đạc của Bác, tôi biết Bác chỉ dồn tâm sức cho những việc phía trước mà không màng tuổi tác và thời gian.

Chiều nay, đang đi xa bỗng nhận được loạt ảnh anh Trần Triết gửi cho tôi, vào mạng mới biết Bác đã ra đi mãi mãi. Bồi hồi nhớ đến lần gặp Bác đầu tiên và cũng là lần gặp duy nhất ở nhà anh Ngô Nhân Dụng, nhưng ấn tượng không thể nào quên được.

Tôi nghĩ về cuộc chiến lâu dài phía trước, về những người đã nằm lại trên những triền núi cạnh trại tù, chưa thấy được những thay đổi của phong trào. Họ như những hạt phù sa nằm lại một bến bờ nào đó nhưng dòng sông tranh đấu vẫn chảy về phía trước.

Chúng tôi đang trong một cuộc chạy tiếp sức, Bác đã đóng góp rất nhiều suốt một chiều dài lịch sử của đất nước, nay Bác ra đi trao lại cây gậy cho thế hệ trẻ tiếp bước làm nốt những công việc của Bác, hoàn thành tâm nguyện của những người Việt xa quê, góp phần nhỏ bé của mình vì một ngày mai tươi sáng của dân tộc Việt Nam.

Thành kính chia buồn cùng gia đình Bác và bạn bè thân hữu. Mong những tâm nguyện của Bác sớm thành sự thật. Chúng tôi vẫn ngày đêm góp phần nhỏ bé của mình để tất cả chúng ta sớm trở về sum họp trên quê hương Việt Nam không còn cộng sản.

Oklahoma 25-10-2021

Hải Nguyễn






Cảm Tưởng về một Chính Khách - bác Bùi Diễm

Giải phóng miền nam, hậu quả là sự sụp đổ của 1 chế độ tự do dân chủ, sự tan rã của 1 chính quyền vì dân, thương dân, và cũng là sự khởi đầu của một thập kỷ đen tối đói rét nhất cho gần 40 triệu người miền nam nói riêng, và cho gần 90 triệu người dân VN nói chung.

Giải phóng miền nam, tôi chỉ là 1 đứa bé một vài tuổi, 1 đứa bé quá nhỏ còn chưa biết nói, thì làm sao có thể biết được những chính khách của miền nam tự do trước 1975? Cái ngày ba tôi bị tống vào trại tù CS, cả nhà tôi phải sống bám víu vào dăm đồng ba cọc, đồng tiền ít oi kiếm được từ nghề may vá của gia đình tôi. Một phần tiền lại phải dành dụm dùng để tiếp tế lương thực cho ba, sống lây lất gần cả 15 năm trong trại tù cải tạo CS bắc việt. Tôi lớn lên trong sự nghèo đói, rách nát, tối tăm của cách mạng thành công, của giải phóng miền nam.

Cái ngày ba tôi được ra tù, chính quyền Mỹ ưu tiên cho gia đình ba tôi được ty nạn chính trị theo diện HO. Tôi dần trưởng thành trong nền học vấn tự do nhân bản của xứ người. Học đường Hoa Kỳ đã dần dạy tôi khái niệm về nhân quyền, dân chủ, nhân sinh mà dưới chế độ CS tôi chưa từng được biết. Tôi quyết định đi tìm tòi sự thật của quá khứ…

Hơn 10 năm trở lại đây, qua một số chương trình như đọc tin và các sinh hoạt của SBTNDC, dần dần tôi quen biết được vài bác, vài chú trong quân đội chính quyền cũ của VNCH. Một trong số những chính khách nổi tiếng mà tôi may mắn được biết, cũng là người mà tôi quý mến, kính trọng là bác Bùi Diễm. Bác là người chậm rãi, từ tốn, trong cử chỉ và cả trong lời nói. Tuy là người có tuổi, nhưng bác lại có trí nhớ rất tốt. Tôi chỉ gặp bác vài lần, nhưng bác lại nhớ rõ tên tôi. Mỗi lần gặp, bác thật vui vẻ hỏi thăm, làm tôi vừa mừng vừa xúc động.

Trong ngày mừng Sinh Nhật bác được tổ chức năm 2019, tôi rất ngạc nghiên khi biết được bác Bùi Diễm chính là người thành lập công ty Tân Việt Điện Ảnh, đã sản xuất bộ phim Chúng Tôi Muốn Sống. Bộ phim thật xúc động, nói về thảm họa cải cách ruộng đất miền Bắc Việt Nam dưới thời ông Hồ Chí Minh, và sự trốn chạy của những nạn nhân sống dưới chế độ tàn bạo CS. Cuốn phim được Đạo diễn Vĩnh Noãn, đạo diễn Philippines Manuel Conde, và Giám đốc Bùi Ngọc Giáo dàng dựng, thực hiện. Bộ phim cũng được sự giúp đỡ, cộng tác của quân đội Việt Nam Cộng Hòa, và được trình chiếu vào tháng 10 năm 1956. Gần 50 năm sau ngày sản xuất, tôi được coi bộ phim này mà lòng vẫn bồi hồi, bàng hoàng, xúc động. Phim thật hay, hay không chỉ nhờ vào cốt truyện, vào kỹ thuật quay, mà còn nhờ cách diễn xuất tuyệt vời của nam tài tử Lê Quỳnh.

Ngoài bộ phim nổi tiếng Chúng Tôi Muốn Sống, công ty Tân Việt Điện Ảnh của bác, còn thực hiện thêm cuốn phim Hồi Chuông Thiên Mụ vào tháng 7 năm 1957. Phim này do nam tài tử Lê Quỳnh và nữ tài tử nổi tiếng Kiều Chinh diễn xuất. Bác Bùi Diễm còn tham gia cả trong ngành báo chí như thành lập báo Saigon Post, một trong những tờ báo tiếng Anh đầu tiên của Việt Nam Công Hòa năm 1963.

Vào cuối tháng 3 năm 2001, bác đã cho ra đời cuốn Gọng Kềm Lịch Sử. Là cuốn hồi ký, tự truyện, bác đã kể lại những diễn biến từ thời Pháp Thuộc, cho đến thời Bảo Đại, từ thời cố tổng thống Ngô Đình Diệm cho đến những ngày cuối cùng khi Miền Nam Việt Nam sụp đổ. Cuốn Hồi ký đã đề cập đến những nhân vật chìm, nổi trong chính trường từ lúc phôi thai, như thời học sinh ở trường Thăng Long cùng Ban Giảng Huấn cho đến những sảnh đường quyền lực ở Hoa Thịnh Đốn. Cuốn sách không những kể lại cuộc đời của bác, mà còn cuộc đời của những người cùng lứa tuổi trong suốt chiều dài lịch sử đau thương của một quốc gia nhỏ bé VN cố gắng dành độc lập tự do dân chủ.

Trong những năm gần đây, bác Bùi Diễm đã giúp anh Alex-Thái Võ cho ra Bộ phim tài liệu của Dự Án Lịch Sử Truyền Khẩu và Cuộc Chiến Việt Nam. Đây là một bộ phim nói về Con Người và Lịch Sử. Một dự án Lịch sử truyền khẩu về chiến tranh VN. Dự án phỏng vấn các nhân chứng sống. Dự án về những nhân chứng từng tham gia, đóng góp về cuộc chiến VN. Dự án tích tụ những tư liệu lịch sử, hiện vật liên quan đến cuộc chiến cũng như những hậu quả của nó. Dự án nói về Sự Can Thiệp Của Hoa Kỳ Tại VN qua cái nhìn của một nhà ngoại giao Bùi Diễm từ năm 1965 đến năm 1975. Ngày ra mắt cuốn phim tài liệu này, tôi lại được vinh dự tham gia.

Cách đây chừng 2 tuần, một người quen cho tôi hay bác Bùi Diễm bây giờ rất yếu. Tôi chưa có dịp đi thăm, không ngờ sự việc đến quá mau, bác Bùi Diễm đã ra đi. Bác đã ra đi mãi mãi, để lại một khoảng trống và sự thương tiếc trong lòng cộng đông người Việt hải ngoại. Việt Nam đã mất đi một nhân tài, Việt Nam đã mất đi một người hết lòng vì dân tộc, vì quốc gia, và Việt Nam đã mất đi một nhân chứng sống trong lịch sử Việt Nam cận đại.

Sự ra đi của bác là một mất mát to lớn, là niềm tiếc nuối vô tận, không chỉ cho riêng tôi mà còn cho các thế hệ trẻ, thế hệ con cháu, thế hệ mai sau.

Bài viết của Thanh Trang và Trí Tôn

Virginia, ngày 26 tháng 10 năm 2021



Đọc 'Gọng Kìm Lịch Sử' của Bùi Diễm

Phạm Xuân Đài

VOA – Bài viết này được nhà báo Phạm Xuân Đài viết và đăng lần đầu trên tạp chí Thế Kỷ 21 số 140, tháng 12 năm 2000, khi Gọng Kìm Lịch Sử của tác giả Bùi Diễm vừa được xuất bản. VOA, được sự đồng ý của tác giả Phạm Xuân Đài, đăng lại bài này nhân ngày cựu Đại Sứ Bùi Diễm qua đời.

Nếu Đêm Giữa Ban Ngày của Vũ Thư Hiên là một cuốn Hồi ký chính trị của một người không làm chính trị từng sống trong lòng chế độ cộng sản, thì Gọng Kìm Lịch sử đích thực là hồi ký của một chính trị gia, đứng trong phía quốc gia. Năm 1987 ông đã cho xuất bản cuốn In the Jaws of Historyviết bằng tiếng Anh, và Gọng Kìm Lịch sử, viết xong vào đầu năm 1999, là hậu thân của cuốn In the Jaws of History, hoàn toàn viết lại bằng tiếng Việt với các tình tiết Việt Nam và thêm một số tài liệu mới tìm thấy.

Ông Bùi Diễm, sinh năm 1923, con trai thứ của học giả Bùi Kỷ, cháu của học giả Trần Trọng Kim, từ tuổi thanh niên, vào đầu thập niên 40, đã tham gia vào phong trào dành độc lập cho Việt Nam. Từ đó ông đi vào cuộc đời hoạt động chính trị, chứng kiến các trôi nổi của lịch sử từ nhiều vị trí đặc biệt: có mặt tại Huế khi nội các Trần Trọng Kim thành lập, yết kiến Quốc trưởng Bảo Đại năm 1949 tại Đà lạt, theo dõi Hội nghị Genève 1954, Bộ trưởng Phủ Thủ tướng 1965, Đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Hoa Kỳ từ 1967 đến 1972, Quan sát viên đặc biệt tại Hòa đàm Paris 1968, Đại sứ Lưu động 1973-1975.

Tác giả bắt đầu các hồi ức về đời mình ở Chương 2, lúc còn là một học sinh tiểu học nhưng đã mơ tưởng đến những chuyện đi xa, đến những nơi mới lạ để tìm hiểu thế giới rộng lớn, và kết thúc ở Chương 37 với nhan đề “Thay lời kết, Lịch sử còn dài...” Ngay ở Chương 2, ông đã cho thấy ảnh hưởng chính trị đã đến với ông rất sớm khi ông vào học trường trung học tư thục Thăng Long, nơi mà ban giáo sư gồm những tên tuổi như Phan Thanh, Đặng Thái Mai, Hoàng Minh Giám, Trần Văn Tuyên, Võ Nguyên Giáp... và tôi lớn lên trong bầu không khí đó, và dần dần ý thức được rằng dưới bộ mặt phẳng lặng của đời sống học đường là những đợt sóng ngầm đang chuyển động mạnh. Lúc bấy giờ là cuối thập niên 30 của thế kỷ 20, những người yêu nước Việt Nam, dưới nhiều khuynh hướng khác nhau, đang vận động để thoát khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp. Và từ đó, ông đã từ từ được dắt dẫn tham gia vào một đảng phái quốc gia, đối lập với khuynh hướng cộng sản vào thời đó cũng đang phát triển mạnh.

Lịch sử cuộc đấu tranh cho độc lập nước nhà của người quốc gia Việt Nam trong thế kỷ 20 là lịch sử của sự thất bại. Từ các cuộc khởi nghĩa võ trang và các vận động duy tân hay Đông du của các cụ hồi đầu thế kỷ, đến Việt Nam Quốc Dân đảng của Nguyễn Thái Học, rồi đến các đảng phái quốc gia trong trận thế vừa chống thực dân vừa chống phong trào cộng sản quốc tế quãng giữa thế kỷ, và sau cùng, khi người quốc gia đã có được nửa nước Việt Nam phía Nam lại cũng thất bại khi chống đỡ với cuộc xâm lăng của phe Cộng sản từ phía Bắc tràn xuống. Từ thập niên 40 trở đi thế trận đấu tranh giành độc lập trở nên phức tạp vì sự có mặt của đảng Cộng sản, một đảng cách mạng dày dạn chuyên nghiệp có hậu thuẫn quốc tế và nhất quyết đoạt sự độc tôn, trong khi người quốc gia chỉ tiếp tục các phương thức đấu tranh truyền thống, luôn luôn tỏ ra lép vế trong phương thức và đòn phép, mặc dù tinh thần yêu nước và hy sinh không thiếu.

Gọng Kìm Lịch sử chính là lịch sử của một người quốc gia trưởng thành vào đúng thời điểm gay go nhất mở màn cho sự đụng độ quốc gia - cộng sản, và bị cuốn theo suốt ba mươi năm, luôn luôn ở những vị thế thuận lợi để có thể tham gia vào những hoạt động cao cấp và từ đó có thể có một cái nhìn tổng thể.

Đó là một con người ưu tú và cũng rất nhiều may mắn để có thể sống trọn vẹn trong từng giai đoạn, hoạt động hết mình, gìn giữ đầy đủ tài liệu, để khi kể lại các hoạt động chính trị của đời mình thì những trang hồi ký ấy có thể xem là đặc trưng cho cuộc đời tranh đấu của một con người quốc gia, hoặc một phần của “phe quốc gia.” Tác giả dẫn chúng ta đi từ những năm đầu thập niên 40 với quân Nhật và máy bay Mỹ, các biến cố lớn lao năm 1945, đi tản cư và về lại Hà Nội, giải pháp Bảo Đại, hiệp định Genève, miền Nam với Đệ nhất và Đệ nhị Cộng hòa, và đặc biệt, hào hứng và căng thẳng nhất là giai đoạn tác giả làm Đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ với các liên hệ phức tạp, đa phương với chính giới Hoa Kỳ, cho mãi tới ngày miền Nam sụp đổ. Vì là hồi ký của một cá nhân, tác giả luôn luôn là một “nhân vật” trong đó, nhưng không phải là một nhân vật trung tâm, đó là điều dễ chịu nhất cho người đọc khi theo dõi một cuốn hồi ký loại này. Qua chuyện kể của mình tác giả giúp chúng ta hiểu rõ về tình hình một giai đoạn, về những biến cố hay nhân vật, với một lối trình bày thấu đáo và một văn phong thành thực, trong sáng.

Năm 1949, 26 tuổi, ông đã hai lần được tiếp xúc với Quốc trưởng Bảo Đại, và đã có những nhận xét: ... sau chuyến đi Đà Lạt, tôi không còn nhiều ảo tưởng về ông như trước nữa. Thực ra về phương diện cá nhân, cũng như nhiều người khác có dịp gần ông tôi có rất nhiều cảm tình đối với ông. Ông là một ông Vua, nhưng cách cư xử của ông đối với mọi người thật là giản dị, bình dân (...) Nhưng về phương diện chính trị thì mặc dầu ông không phải là người khờ khạo hay thiếu hiểu biết, ông không có đức tính của một người lãnh đạo tạo được thời thế thuận lợi cho quốc gia dân tộc, mà chỉ là người chịu đựng cho thời thế xoay vần.

Cả cuộc đời chính trị của cựu hoàng Bảo Đại cho đến khi đóng nắp áo quan có lẽ không ra ngoài nhận xét trên đây từ mấy mươi năm trước của chàng thanh niên Bùi Diễm.

Trong chế độ Ngô Đình Diệm, ngay từ đầu, giống như bao người khác đã từng hoạt động trong các đảng phái quốc gia, Bùi Diễm nhận thấy mình bị loại ra khỏi sinh hoạt chính trị. Chỉ sự mô tả sự kiện ấy, tác giả đã cho thấy một đặc điểm của chế độ nàv, mà người ta thường gọi là gia đình trị.

Chế độ Ngô Đình Diệm dần dần được củng cố, thì bên ngoài chính quyền, các phần tử quốc gia có tinh thần độc lập như chúng tôi, bị dồn vào một thế càng ngày càng khó cựa. Mặc dầu có thiện cảm với ông Diệm ngay lúc ông trở về nước, nhiều người nhận thấy khó mà giúp ông vì chính ông cũng không muốn sự hợp tác đó. (...) Ông Diệm vẫn theo chính sách đóng cửa, và giữ thái độ nghi kỵ nếu không nói là khinh rẻ đối với các giới chính trị, trong khi đó thì ông Nhu lặng lẽ xây dựng một bộ máy để củng cố chế độ. Cũng như nhiều người khác, sau bao nhiêu năm hoạt động tôi thành một người ngoài cuộc, bị loại ra khỏi chính trường.

Đệ nhất Cộng hòa là một cơ hội hiếm có và may mắn cho người quốc gia, nhưng tiếc thay, chế độ không những đã không có lòng đoàn kết mọi người mà lại còn tiến hành chính sách cục bộ nhiều màu sắc gia đình và tôn giáo, loại trừ nhiều thành phần ưu tú đã từng dày dạn đấu tranh, nên khi chế độ đó chấm dứt thì phe quốc gia cũng đã bị phân rã, thương tích khá nhiều. Một tiết lộ ít ai ngờ tới, là phim Chúng Tôi Muốn Sống, một phim chống cộng có giá trị trong thời kỳ đầu của chế độ này, lại do chính tác giả và bạn bè, trong đó có bác sĩ Phan Huy Quát, thực hiện. Dù có sự giúp đỡ về phương diện kỹ thuật của sở Thông tin Hoa Kỳ và sự yểm trợ một số phương tiện của quân đội, phim này hoàn toàn là một phim thương mại có chủ đề chính trị, mà vốn thực hiện thì do tôi xoay xở, rủ người này người khác, vay mượn nơi này nơi khác.

Sau chế độ Ngô Đình Diệm là giai đoạn sôi nổi nhất của tác giả. Chủ trương một tờ báo tiếng Anh, Saigon Post, rồi tham chính, làm bộ trưởng trong chính phủ Phan Huy Quát, rồi Đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ. Năm 1963 ông vừa bốn mươi, tuổi vừa chín chắn vừa sung sức cho một người nắm giữ những vị trí then chốt trong chính trị. Thời sự trong những năm sau khi chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ thật vô cùng phức tạp, các phe quân nhân đảo chính với chỉnh lý liên tục, xung đột Phật giáo Công giáo, vụ Phật giáo miền Trung, Hoa Kỳ đổ quân vào Việt Nam, rồi Tết Mậu Thân, rồi hòa đàm Paris... một người trưởng thành có để ý đến tình hình vào thời đó đến nay chưa chắc có thể nhớ rõ từng biến cố, cái nào trước cái nào sau, chưa nói đến nguyên nhân và hậu quả mà chỉ có giới am tường chính trị mới có thể nắm được. Có lẽ chưa có một cuốn sách nào trình bày về giai đoạn này rõ ràng hơn khúc chiết hơn là Gọng Kìm Lịch sử. Từ vụ đảo chính tháng 11.1963 trở về sau, biến cố nào xảy ra trên chính trường Việt Nam cũng đều được tác giả kể lại rất đầy đủ chi tiết cùng nguyên ủy. Nếu thời Ngô Đình Diệm tác giả là người “đứng ngoài” thì thời kỳ sau đó ông là người “đứng trong,” cùng các liên hệ quen biết chằng chịt với mọi giới. Chúng ta sẽ bắt gặp những chuyện mà ta không thể ngờ được, ví dụ những đơn vị quân đội Mỹ đầu tiên đổ bộ Đà Nẵng vào ngày 8 tháng 3, 1965, thì chính quyền trung ương Việt Nam không hay biết gì cả, và ngay tòa Đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn cũng bị động, lúng túng.

Cũng với cái nhìn đầy đủ và nhạy bén ấy, tác giả đi vào chính giới Hoa Thịnh Đốn, khi được cử làm Đại sứ tại đây vào năm 1966. So với các vị “được làm vua, thua làm đại sứ” tiền nhiệm thì đại sứ Bùi Diễm mới đích thực là một sứ thần đại diện xứng đáng cho Việt Nam nơi một quốc gia đồng minh đang có liên hệ sống chết với nước mình. Qua các hoạt động được mô tả lại, người ta thấy sự quen biết rộng rãi của ông trong chính giới và giới báo chí Hoa Kỳ, sự nhạy bén, sáng suốt và tinh thần trách nhiệm của ông khi phải đối phó liên tục với tình thế biến đổi không ngừng trên chính trường Hoa Kỳ cũng như chiến trường và chính trường Việt Nam. Là một nhà chính trị, ông còn là một học giả, về cuộc chiến Việt Nam, ngoài việc thường xuyên cọ xát trực tiếp với những nhân vật đầu não trong chính quyền Hoa Kỳ thời bấy giờ, ông đã sưu tầm rất nhiều tài liệu liên quan, để mong có thể hiểu được cuộc chiến tranh mà cho đến giờ phút này nhiều người vẫn thấy là còn nhiều bí ẩn.

Cuốn In the Jaws of History gồm 36 chương, khi viết lại bằng tiếng Việt để thành cuốn Gọng Kìm Lịch sử này, tác giả thêm một chương chót, 37, có tựa đề “Thay lời kết, Lịch sử còn dài...” Tác giả cho biết đã viết cuốn trên là để trả lời một số lập luận sai lầm của các nhóm thiên tả hay phản chiến trong dư luận Hoa Kỳ về cuộc chiến tại Việt Nam. Chương viết thêm này là những lời tâm sự của một người Việt Nam quốc gia đã trải qua lịch sử 30 năm từ 1945-1975. Ước vọng của người quốc gia nào cũng là mưu tìm độc lập cho Việt Nam, và rồi xây dựng một đất nước văn minh dân chủ, mà qua hai mươi năm chế độ Cộng hòa ở miền Nam coi như các tiền đề đã tạm đặt xong. Dù phe quốc gia đã thua trong cuộc chiến, lý tưởng của phe quốc gia vẫn đứng vững đến tận ngày nay, và ngày càng trở nên là ước vọng của mọi người Việt Nam chân chính, ngay cả những người một thời đã theo chủ nghĩa cộng sản. Người quốc gia đã tiếp tục giữ gìn truyền thống của dân tộc, nhờ đó mà những giá trị tinh thần còn lưu giữ được đến ngày nay qua cơn hồng thủy điên cuồng của tinh thần vô sản quốc tế mà người cộng sản đã du nhập một cách điên cuồng vào đất nước ta. Phe cộng sản thắng cuộc chiến vì đã đánh thức được cái phần bản năng cướp giật của một khối người bị trị nghèo đói lâu ngày (bao nhiêu lợi quyền tất qua tay mình - Quốc tế ca), đồng thời cũng che phủ lên cái mặt thú vật ấy một cái khăn choàng lý tưởng rất cao đẹp và cũng rất không tưởng.

Phe quốc gia thấy trước được tất cả nguy cơ làm sa đọa con người và cuộc sống ấy, đã chiến đấu, với tất cả hy sinh cao đẹp cũng như sự yếu kém của mình. Cuộc chiến đấu ấy đã giương cao mãi mãi những ước mơ phải đạt tới của dân tộc, cũng là ước mơ bình thường của cả loài người, đã bị chủ nghĩa cộng sản làm vẹo vọ đi trong gần suốt thế kỷ 20. Dù là sau chiến thắng 1975, Cộng sản Việt Nam tiếp tục dìm đất nước trong lạc hậu, nghèo đói và thiếu tự do, nhưng với tình hình thế giới biến chuyển vào thập niên cuối của thế kỷ 20, tác giả lại lạc quan, thấy Việt Nam đã dần dần hội đủ nhân tố để những “đột biến” có thể xảy ra. Lúc bấy giờ lý tưởng của bao thế hệ người quốc gia sẽ được thực hiện trên mảnh đất mà chỉ vì mấy chữ “độc lập, tự do, dân chủ” đã có không biết bao đau thương và xương máu đổ xuống suốt nửa thế kỷ qua.

Gọng Kìm Lịch sử đã tổng hợp được cái nhìn cho một phía, phe quốc gia, phơi bày khá chi tiết các ngóc ngách lịch sử về một giai đoạn gay go nhất. Tác giả hình như đã tự kềm chế rất nhiều tính chất chủ quan thường là có quyền có của thể loại hồi ký, để gắng đem lại sự khách quan cho cuốn sách mà như tên gọi, chính là một phần lịch sử được tái hiện. Phẩm cách của ngòi bút, sự chân thành và uyên bác của tác giả thuyết phục người đọc. Đó là một nhà chính trị có văn tài, bút pháp của ông già dặn mà tươi tắn, khoa học mà tình cảm, phô bày một cái tâm suốt đời thiết tha với nền độc lập của đất nước, đời sống tự do sung sướng cho dân tộc. Hồi ký của ông cho thấy sự dấn thân tận nhân lực của một trí thức ưu tú trong quá khứ, và tiếp tục là một lời kêu gọi và biểu dương cho lý tưởng không bao giờ lỗi thời của người quốc gia.

Nguồn: Đọc 'Gọng Kìm Lịch Sử' của Bùi Diễm

https://www.voatiengviet.com/a/bui-diem-gong-kim-lich-su/6283677.html

Tiếc Thương

Quản Mỹ Lan

Tôi gặp cựu Đại Sứ Bùi Diễm khá muộn màng.

Trước kia tôi chỉ nghe tên ông như mọi người. Tình cảm của tôi đối với tầng lớp lãnh đạo của Việt Nam Cộng Hòa trước 1975 và sau 1975 rất khác.

Trước 1975, tôi quý trọng và đặt tất cả niềm tin vào họ, vào guồng máy lãnh đạo của Việt Nam Cộng Hòa. Sau 1975 thì tôi buồn trách chính tôi và trách tầng lớp lãnh đạo của mình. Tôi cho rằng chính mình và mọi người đã không hết lòng vì dân, vì nước, có những lúc người ta đã vì tiền, vì tham vọng cá nhân mà giết hại vị Tổng Thống đầu tiên của Việt Nam Cộng Hòa, những người thờ ơ, những người bị tai tiếng về tham nhũng (nhưng nếu so với tầng lớp lãnh đạo thời nay !). Tôi trách và cho rằng các nhà lãnh đạo Miền Nam không đủ bản lãnh để đối phó với quân Cộng Sản nên VNCH mới thua trong khi mình có chính nghĩa, mình có biết bao nhân tài…

Vì thế khi gặp Đại Sứ Bùi Diễm và tất cả những ai trong guồng máy trước đây tôi đều buồn phiền trừ hai cựu Bộ Trưởng Ngoại Giao Trần Văn Đỗ và Vương Văn Bắc, cựu Phó Thủ Tướng Dương Kích Những. Có những người khác nữa nhưng tôi không thấy ở họ tinh thần trách nhiệm, không thấy lòng yêu nước sâu đậm ở họ nên tôi không quan tâm. Tại sao lại có sự phân biệt đó ?

Chỉ vì với ba vi này tôi có dịp tiếp xúc, nói chuyện còn những vị khác tôi cũng có dịp nói chuyện đấy nhưng không tìm thấy điều muốn tìm nên trong lòng vẫn là sự oán trách vì « mất đất nước là mất tất cả » (lời TT Nguyễn Văn Thiệu) và chúng ta đã mất đất nước, chúng ta đã mất tất cả, chúng ta đã phải lìa bỏ quê cha đất tổ, sống tha hương trên xứ người.

Cho đến khi tôi đọc được một số tài liệu của chồng tôi sưu tầm được tại những trung tâm lưu trữ, những thư viện của Pháp và Mỹ khi anh chuẩn bị làm tiến sĩ về lịch sử Việt Nam cận đại và sau khi đọc « Gọng Kìm Lịch Sử » của ông cũng như một số hồi ký của những người không nhiều thì ít liên quan đến Miền Nam thì tôi mới hiểu ra rằng sự thể đã không như mình nghĩ. Tôi gặp tác giả của GKLS, cựu Đại Sứ Bùi Diễm, được nói chuyện với ông, được thấy con người thật cuả ông thì tôi mới hiểu rằng, tôi - một công dân bình thường - đau khổ một về chuyện nước non thì những người có trách nhiệm trước sự sống còn của đất nước như ông Bùi Diễm đã và đang đau khổ gấp mười, gấp trăm lần.

Có biết, có hiểu thì mới thông cảm, mới chia sẻ những gì trước đây mình đã ngộ nhận, đã trách móc sai. Dĩ nhiên với một nhóm đông đảo, không phải ai cũng giống ai, ai cũng xấu xa hay ai cũng tốt đẹp. Trong guồng máy công quyền đó có những người thật sự tệ bạc, tham nhũng, nịnh bợ để tiến thân tuy nhiên cũng không thiếu những người hết lòng vì dân, vì nước nhưng đến lúc vận hạn thì làm sao ai cưỡng lại được trước cảnh « trẻ tạo hóa, đành hanh quá ngán » …

Hôm nay, chúng ta vĩnh viễn chia tay một trong số ít ỏi những người còn lại của một thời đã cùng sống với chúng ta tại VNCH, người đã đi vào lịch sử của Miền Nam, người từng đến phút cuối của cuộc chiến vẫn cố vẫy vùng để cứu lấy Miền Nam nhưng vận nước đã được an bài. VNCH đã thua cuộc để nhường chỗ cho cái ác, cái bất nhân thống trị trên toàn cõi quê hương.

Cũng như nhà thơ Hà Thượng Nhân, Đại Sứ Bùi Diễm lớn hơn tôi rất nhiều nhưng Ông coi tôi như em vì « Trong văn nghệ chúng ta là anh em » thì Ông Bùi Diễm cũng nói với tôi « Trong cuộc đấu tranh này, chúng ta là anh em ». Lời nói như nhắn nhủ, như gửi gấm một trách nhiệm, một sứ mạng … nhưng thế hệ chúng tôi cũng chẳng làm được gì trước vận nước điêu linh ! Những người cầm quyền hiện nay họ có một lý tưởng khác (lý tưởng CS !) một mục tiêu khác (những đấu tranh gian khổ của họ chỉ là để được vét đầy túi tham). Lý tưởng CS thì ngày nay hình như cũng đã nhạt nhưng mục tiêu thì quả là đã đạt được hơn cả mong đợi ! Vì thế người CS phải dùng tất cả mọi thủ đoạn, mọi mánh lới dù tàn ác, bất nhân đến đâu để giữ những gì họ đã đạt được.

Vì vậy những « người Quốc Gia » như Ông Bùi Diễm dù cả đời hy sinh, lo cho nước và lớp đàn em, thế hệ tiếp nối Ông đã hoàn toàn bất lực.

Thưa Đại Sứ Bùi Diễm kính mến,

Trong giờ phút sinh ly tử biệt này, em xin anh sống khôn thác thiêng hãy phù hộ cho lớp đàn em, thế hệ sau anh, những người biết đặt tình yêu nước lên tất cả mọi vật chất phù du để họ có khả năng và đảm lược đứng lên giành lại quyền lãnh đạo, đưa tổ quốc Việt Nam thân yêu thoát gông cùm Cộng Sản, tiến lên cùng năm châu như ước nguyện của anh lúc sinh thời.

Từ nước Pháp xa xôi, em thắp nén nhang tiễn anh, tiếc thương anh vô hạn, cầu xin hương linh anh từ nay được an giấc ngàn thu, yên nghỉ trong một thế giới vĩnh hằng, không còn đau thương thù hận.

Kính bái,

Quản Mỹ Lan

Đinh Quang Anh Thái: 'Vĩnh biệt bác Bùi Diễm'

Sáng sớm ngày Chủ Nhật 24 Tháng Mười 2021, điện thoại cầm tay có người gọi đến mà không thấy tên xuất hiện trên màn hình, chỉ có số vùng (202) Washington DC. Tôi alô, đầu giây bên kia tự giới thiệu là phóng viên ban Việt ngữ Đài Tiếng Nói Hoa Kỳ VOA, muốn phỏng vấn tôi về tin cựu Đại sứ Bùi Diễm vừa qua đời.


Tôi sững người!


Rạng sáng hôm đó, trong lúc tìm các hình ảnh cũ để in vào cuốn KÝ 3 tôi đang viết thì thấy hai tấm hình tôi chụp ông Bùi Diễm, giáo sư Nguyễn Ngọc Linh và cựu Trung tá Nhẩy Dù Bùi Quyền ngồi uống trà tại quán Phở Nguyễn Huệ của ông Cảnh “Vịt” ở Quận Cam – Nam California. Một trong hai tấm hình là lúc ông Bùi Diễm hút thuốc lào do ông Bùi Quyền mời.


Cả ba người, giờ đây không ai còn.


Trả lời câu hỏi của VOA, tôi nói: “Cụ Bùi Diễm là người xuất thân từ đảng cách mạng Đại Việt. Sau đó cụ bắt đầu tham gia chính trường của Việt Nam với nhiều vị thế, từ bộ trưởng phủ thủ tướng cho đến đại sứ. Cụ có tấm lòng nhiệt thành của người làm cách mạng, có sự thận trọng cân nhắc của một người làm chính trị và có cách hành xử khéo léo của một nhà ngoại giao. Năm 1975 khi qua Mỹ, cụ tiếp tục là một tiếng nói đóng góp vào dòng chính để nước Mỹ hiểu chính nghĩa của Việt Nam Cộng Hòa. Đồng thời, cụ đi khắp nơi để trao truyền bó đuốc cách mạng cho những thế hệ trẻ về sau.”


Vừa dứt phone với VOA, tôi gọi ngay số phone nhà bác Diễm, tiếng chuông reng liên tục không ai trả lời. Ngày hôm sau, tôi gọi lần thứ ba thì cụ bà Diễm trả lời. Tôi nói: “Cháu rất đau buồn, bác ơi!” Bác gái nói: “Ông Diễm mong anh đến thăm lắm nhưng trễ rồi.”

Nghe bác gái nói, tôi thật ân hận vì cách đây hai tháng tôi có hứa với bác trai là sẽ thu xếp sang thăm bác.

Bác gái kể, đêm 23, tay chân bác trai vẫn ấm, bác trai vẫn nắm tay bác gái. Vậy mà rạng sáng, bác trai đã xuôi tay.

***

Sáng Chủ Nhật, tôi gọi Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng 2 lần, để lời nhắn mà ông không bốc máy. Tôi chợt nhớ ông nói với tôi cách đó hai ngày là ông đi Houston thăm người bạn thân Lê Văn đang hấp hối trên giường bệnh và sẽ bay về Virginia ngày Chủ Nhật.


Email gửi cho tôi, Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng viết: “Ông Bùi Diễm là một nhà ngoại giao khôn khéo. Với tư cách là một đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ rồi sau là Đại sứ lưu động, ông Diễm hiểu biết tường tận và quen thuộc với nhiều chính giới Mỹ; do đó có khả năng cung cấp cho chính phủ Việt Nam những tin tức cần thiết để hoạch định chính sách đối với Hoa Kỳ.


“Tôi chỉ biết ông sau năm 1975. Cùng với một số người khác, chúng tôi làm viêc chặt chẽ với nhau trong việc thành lập Nghị Hội Toàn Quốc Người Việt ở Hoa Kỳ, sau đổi thành Nghị Hội Toàn Quốc Người Mỹ gốc Việt mà ông là Chủ tịch Hội đồng Điều hợp Trung ương đầu tiên.


“Ông cũng giúp tôi rất nhiều trong viêc xây dựng Viện Nghiên Cứu Đông Dương (Indochina Institute) thuộc trường Đại học George Mason, và là một trong ba học giả cao cấp (senior scholars) của Viện. Ông được bổ nhiệm với sự đồng thuận của Hội đồng Khoa Chính trị học trường Đại học George Mason sau khi xuất bản cuốn In the Jaws of History. Hai người kia là Arthur J. Dommen, tác giả của Conflict in Laos: The Politics of Neutralization và Laos: Keystone of Indochina; và Frederick Z. Brown, tác giả của Second Chance: The United States and Indochina in the 1990’s và Cambodia and the International Community: The Quest for Peace, Development, and Democracy.


“Trong ba người ấy, Bùi Diễm là người cuối cùng ra đi. Fred Brown mất trước đó một tháng. Arthur Dommen mất cách đây 16 năm.

“Đối với tôi, cựu Đại sứ Bùi Diễm là một người bạn vong niên thân tình và một cộng sự viên đắc lực. Ông là người điềm đạm, hiểu biết, có tư cách, và cư xử lịch thiệp.”

***

Trong mối liên hệ không dính dáng đến chính trị, diễn viên Kiều Chinh hồi tưởng lần gặp cụ Bùi Diễm đầu tiên.


“Cuối năm 1956, thời điểm nhóm làm phim The Quiet American (Người Mỹ Trầm Lặng) sang Việt Nam tìm người đóng, họ mời tôi thủ một vai trong phim nhưng bố mẹ chồng không cho. Vì nếu nhận lời, tôi sẽ đóng vai cô gái Việt Nam tên Phương, sống với một người đàn ông Anh, rồi sau đó yêu một người Mỹ.


“Dù tôi đã từ chối, đoàn làm phim vẫn mời xuất hiện thật ngắn, không nói lời nào, trong vai một thiếu nữ đi ngang qua đường phố gần Chùa Tàu ở Chợ Lớn.

“Đó là thời điểm tôi gặp anh Bùi Diễm lần đầu tiên. Anh Diễm lúc bấy giờ là giám đốc Hãng Phim Tân Việt (làm cuốn phim Chúng Tôi Muốn Sống, hợp tác với Phi Luật Tân) phụ giúp nhóm làm phim Người Mỹ Trầm Lặng quay phim tại Sài Gòn.


“Một năm sau, 1957, Hãng Tân Việt quay cuốn phim Hồi Chuông Thiên Mụ của đạo diễn Lê Dân, anh Diễm là nhà sản xuất, mời tôi đóng vai ni cô Như Ngọc.”

Nhớ lại giai đoạn đó, nghệ sĩ Kiều Chinh nói, “lúc anh Diễm tham gia nhiều hơn vào hoạt động chính trị thì tôi ít gặp anh, mãi tới lúc sang Mỹ sau 1975, mỗi lần anh Diễm từ Maryland đến Quận Cam, hai anh em mới lại có dịp gặp nhau và khi nào đi sang Miền Đông tôi cũng thăm anh chị Diễm.


“Biết anh đã yếu có thể đi bất cứ lúc nào nhưng vẫn sửng sốt khi nghe tin anh mất. Những người mà tôi xem là các ông anh là nhà văn Mai Thảo, cựu Trung tá Vũ Quang Ninh, nhà báo Lê Lai, đã lần lượt ra đi, nay đến anh Bùi Diễm, mất mát nhiều quá.”

***

Từ Paris, ông Nguyễn Gia Kiểng, kỹ sư đã về hưu, người sáng lập Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên, viết email cho tôi vào lúc nửa đêm Chủ Nhật.


Ông Kiểng viết: “Tôi gặp ông Bùi Diễm lần đầu năm 1968 tại phi trường Orly Paris năm 1968, hình như là ngày 10 tháng Năm.


“Ông từ Washington tới Paris với tư cách ‘quan sát viên của Việt Nam Cộng Hòa’ tại Hòa Đàm Paris bắt đầu trước đó một tháng, mới đầu chỉ mở ra giữa Mỹ và Bắc Việt. Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa cũng như Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam chỉ được tham gia với tư cách quan sát viên.


“Tối hôm trước, vào gần nửa đêm, ông Nguyễn Đình Hưng, cố vấn Tòa Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Pháp, bất ngờ gọi điện thoại cho tôi cho biết chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đã chấp nhận tham gia hòa đàm và sáng sớm mai ông Bùi Diễm, lúc đó đang là đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Mỹ, sẽ đến Paris với tư cách quan sát viên. Việc Việt Nam Cộng Hòa chấp nhận tham gia, dù chỉ với tư cách quan sát viên, là một quyết định đau nhức và bẽ bàng. Sau khi cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân nổ ra, tổng thống Mỹ Lyndon Johnson đã đơn phương lấy quyết định thương thuyết với Bắc Việt để chấm dứt chiến tranh và Việt Nam Cộng Hòa chỉ được tham gia với tư cách quan sát viên nếu muốn. Trước đó phái đoàn Bắc Việt do Xuân Thủy cầm đầu tới Paris đã được phe cộng sản tại đây tổ chức tiếp đón rất tưng bừng. Vào lúc đó tôi không còn là chủ tịch Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam tại Paris nữa nhưng mọi người đều biết trên thực tế tôi vẫn là người lãnh đạo tổ chức này.


“Hôm đó tại nhà tôi có bốn anh em. Chúng tôi lập tức gọi điện thoại cho một số người rồi phân công nhau giữa đêm đến các cư xá sinh viên đánh thức họ dậy, rủ họ ra đón đại diện Việt Nam Cộng Hòa tại phi trường. Dù gấp rút chúng tôi cũng đã tập hợp được khoảng 100 người.

“Rõ ràng là ông Bùi Diễm không ngờ được tiếp đón như vậy. Ông tới một mình, khoác chiếc áo mưa màu vàng nhạt và giật mình khi thấy một số đông người đón tiếp. Nếu không có các nhân viên ngoại giao Việt Nam Cộng Hòa chắc ông có thể nghĩ chúng tôi tới để gây sự với


ông. Tôi ứng khẩu một bài diễn văn tiếp đón và ông Bùi Diễm cũng ứng khẩu một bài đáp từ. Mối liên hệ giữa chúng tôi bắt đầu từ đó. Ông Bùi Diễm dành cho tôi một cảm tình đặc biệt. Trong suốt thời gian cầm đầu phái đoàn quan sát, ông gặp tôi thường xuyên. Sau này khi làm cố vấn cho phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa trong hòa đàm Paris đợt hai, ông đều gọi tôi để gặp nhau mỗi lần ông tới Paris.


“Sau 1975 mỗi khi tới D.C. tôi thường thu xếp thời gian để gặp ông. Kỷ niệm vui nhất là năm 1990, ông đi nghe tôi nói chuyện tại D.C. rồi sau đó còn theo một số bạn bè về nhà giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng ăn cơm tối và nói chuyện tiếp. Trong lúc thảo luận ông không ngồi như mọi người mà nằm dài trên sàn nhà một cách thỏa mái. Tôi cũng ngồi xuống sàn nhà cạnh ông. Thỉnh thoảng ông nắm tay tôi.


“Ông Bùi Diễm coi tôi như em út và tôi cũng coi ông như anh cả. Ông là một trong hai nhân vật mà tôi kính trọng và đánh giá cao nhất trong phe quốc gia trong suốt cuộc xung đột Quốc - Cộng.


“Xin chúc ông yên nghỉ.”

***

Tại California, nhà báo Đỗ Quý Toàn gửi email cho tôi và mở đầu bằng câu: “Tưởng Nhớ Nhà Nho Bùi Diễm.”

Ông Toàn viết: “Đại sứ Bùi Diễm lên Montréal thăm bác sĩ Nguyễn Tấn Hồng trong thập niên 1980, nhờ thế tôi được gặp cụ lần đầu.


“Chúng tôi mời cụ Bùi Diễm lên thăm Làng Cây Phong, một nơi các Phật tử thường về để tập lối sống trong tỉnh thức. Bác sĩ Hồng là một đàn anh rất thân với chúng tôi vì đã cùng hoạt động trong Hội Hướng Đạo Việt Nam trước 1975 và cùng tổ chức Làng Cây Phong ở Québec, Canada. Cụ Bùi Diễm lúc nào cũng sống trong tỉnh thức, vì cụ đã thấm nhuần nền giáo dục Nho Giáo. Nhìn phong cách một người, chúng ta có thể thấy nền nếp Nho Phong, ‘Cư Kính nhi Hành Giản,’ thân mật, giản dị mà không suồng sã, cẩn trọng từng lời nói từng cử chỉ.


“Cụ Bùi Diễm, Bác sĩ Hồng, Tướng Phạm Quang Chiểu là ba trong bốn người bạn ở cùng một phòng trong Học Xá Đại học Hà Nội, thời 1940. Khi gặp ba vị đàn anh này, tôi mường tượng ra hình ảnh các nhà Nho thời trước. Tình bạn của họ được giữ gìn nửa thế kỷ, không khác gì tình bạn trong những câu thơ ‘Mến yêu từ trước đến sau – Trong khi gặp gỡ biết đâu duyên giời’ trong bài thơ khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến. Người thứ tư ở trong căn phòng học xá đó sống ở Hà Nội, sau đã có dịp qua Bắc Mỹ thăm ba người bạn đã di cư vào Nam.


“Một lần viết về bài Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi, tôi có nhắc tới ‘bản dịch trác tuyệt của Bùi Kỷ’ in trong sách Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim. Tôi dùng chữ ‘trác tuyệt’ chỉ vì bài dịch này phải nói là ‘trác tuyệt.’ Không ngờ, mấy ngày sau tôi nhận được thư của đại sứ Bùi Diễm, chỉ để cảm ơn về nhận xét trên.

“Một người con ở tuổi 90 mà nghe ai khen ngợi một bài văn của người thân sinh mình bèn viết thư bày tỏ cảm ơn, đó cũng là một hành động bây giờ rất hiếm thấy người còn giữ. Lối sống trước sau như một, không vì một việc thiện nhỏ mà không làm, việc ác nhỏ mà không tránh, điều độ, thận trọng, nghiêm với mình nhưng rộng lượng với người, đó là hình ảnh của các bậc cha chú, của các anh tôi mà tôi còn nhớ được. Mẹ tôi vẫn kể rằng khi còn sống thầy tôi bao giờ cũng gọi các con là “anh” hay “chị,” đó cũng là lối sống kính cẩn và giản dị, ‘cư kính nhi hành giản.’


“Mấy bữa trước, tôi mới đọc lại cuốn ‘Bắc Ninh Dư Địa Chí’ của Đỗ Trọng Vĩ, do Đỗ Tuấn Anh dịch, xuất bản năm 1997. Sau trang số 108 có bức hình một bức ‘cuốn thư’ sơn son thếp vàng, là những lời chúc mừng khi cụ Đỗ Trọng Vĩ bỏ quan ‘về chí sĩ’ năm 1898. Những vị đứng tên trong bài chúc mừng ông nội tôi là các bạn đồng khoa, Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến; cụ Nghè Vân Đình Dương Khuê; Phó Bảng Dương Danh Lập xã Khắc Niệm là thông gia với ông nội tôi; và Phó Bảng Bùi Văn Quế, thường gọi là Cụ Nghè Châu Cầu Châu Cầu. Cụ Bùi Văn Quế sinh năm 1837, kém cụ Đỗ Trọng Vĩ 8 tuổi mà đậu cử nhân cùng một khoa thi. Cháu nội cụ, nhà văn Bùi Kỷ sinh năm 1888, sau thân phụ tôi 13 năm.


“Tôi vẫn tính sẽ kể cụ Bùi Diễm nghe mối quan hệ giữa cụ Bùi Văn Quế với cụ Đỗ Trọng Vĩ, ông nội tôi, nay xin ghi lại để tưởng nhớ người đàn anh quá cố và cầu nguyện hương linh sớm vượt thoát nẻo luân hồi.”

***

Sáng Thứ Hai 25 Tháng 10, Miền Nam California trời mưa rả rích, Nhà văn Phạm Xuân Đài đến nhà sách Tự Lực tìm tôi để nhận lại cuốn Gọng Kìm Lịch Sử của cụ Bùi Diễm mà tôi giữ của ông bấy lâu nay.

Tôi hỏi tác giả “Hà Nội Trong Mắt Tôi”, ông nghĩ gì về cụ Bùi Diễm và tác phẩm Gọng Kìm Lịch Sử. Phạm Xuân Đài nói, ông có viết một bài điểm sách khi Gọng Kìm Lịch Sử vừa được xuất bản hồi 2000.


Xin trích đoạn trong bài viết của Phạm Xuân Đài với tựa đề “Đọc 'Gọng Kìm Lịch Sử' của Bùi Diễm”:

“Gọng Kìm Lịch Sử đích thực là hồi ký của một chính trị gia, đứng trong phía quốc gia.


“Gọng Kìm Lịch Sử chính là lịch sử của một người quốc gia trưởng thành vào đúng thời điểm gay go nhất mở màn cho sự đụng độ quốc gia - cộng sản, và bị cuốn theo suốt ba mươi năm, luôn luôn ở những vị thế thuận lợi để có thể tham gia vào những hoạt động cao cấp và từ đó có thể có một cái nhìn tổng thể.


“Đó là một con người ưu tú và cũng rất nhiều may mắn để có thể sống trọn vẹn trong từng giai đoạn, hoạt động hết mình, gìn giữ đầy đủ tài liệu, để khi kể lại các hoạt động chính trị của đời mình thì những trang hồi ký ấy có thể xem là đặc trưng cho cuộc đời tranh đấu của một con người quốc gia, hoặc một phần của ‘phe quốc gia.’


“Vì là hồi ký của một cá nhân, tác giả luôn luôn là một ‘nhân vật’ trong đó, nhưng không phải là một nhân vật trung tâm, đó là điều dễ chịu nhất cho người đọc khi theo dõi một cuốn hồi ký loại này. Qua chuyện kể của mình tác giả giúp chúng ta hiểu rõ về tình hình một giai đoạn, về những biến cố hay nhân vật, với một lối trình bày thấu đáo và một văn phong thành thực, trong sáng.”

***

Cuối năm 1984, từ đảo tỵ nạn Galang, tôi “chân ướt chân ráo” đến Mỹ định cư tại Virginia. Chưa được một tháng, hưởng mùa tuyết rơi đầu tiên trong đời, tôi dọn sang miền Nam California kiếm sống bằng nghề đánh cá tại Cảng San Pedro. Một trong hai người chủ tàu là anh Nguyễn Văn Cường, người bạn cũ thời trước 1975 ở Sài Gòn và lúc bấy giờ là tổng thư ký Phong Trào Thanh Niên Cách Mạng Dân Tộc Việt. Mọi liên lạc lúc đó đều dùng số phone nhà của anh Cường.

Một lần, sau ba tuần lênh đênh sóng nước quay về bến với cá đầy khoang, anh Cường đón tôi, nói, ông Nguyễn Ngọc Bích ở Virginia gọi nhắn tôi gọi lại gấp cho ông.


Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích từng du học Mỹ nhiều năm, ông về Việt Nam khoảng 1970 và giữ chức Cục Trưởng Cục Thông Tin Quốc Ngoại thuộc Bộ Dân Vận Chiêu Hồi. Tôi được hân hạnh quen biết và sau trở nên thân tình với ông Bích từ năm tôi 18 tuổi.


Giáo sư Bích nói qua phone, Nghị Hội Toàn Quốc Người Việt sắp họp và ông muốn mời tôi về nhận “bó đuốc cách mạng” do thế hệ đi trước trao lại. Tôi hỏi, ai sẽ trao bó đuốc cho thế hệ chúng tôi. Ông Bích trả lời: “Ông cựu Đại sứ Bùi Diễm.” Không hiểu tại sao lúc đó tôi buột miệng nói: “Vậy em sẽ không tham dự vì thế hệ ông Diễm chẳng có gì hay ho để trao bó đuốc cách mạng cho bọn em.”


Mãi tới nay, tôi vẫn vô cùng ân hận vì đã buông ra một câu xấc xược như thế với cụ Bùi Diễm và những người thuộc thế hệ cụ.

Sau này nhìn lại ngày tháng đó, tôi hiểu tại sao mình hỗn láo như vậy: Chỉ vì cá nhân tôi - và tôi tin là nhiều người thuộc thế hệ chúng tôi - ít hiểu biết về những đóng góp của thế hệ cha chú trong công cuộc mưu tìm độc lập, hạnh phúc, ấm no cho con người và đất nước Việt Nam suốt thế kỷ qua.


Cụ Bùi Diễm đã mở mắt cho tôi.

Một bữa cơm tại nhà Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng năm 1990, tôi được gặp cụ Bùi Diễm.

Trong lúc tôi ngồi một góc hóng chuyện của các vị khách của giáo sư Hùng, thì một ông tiến tới, giọng từ tốn, nói: “Tôi là người mà anh nói với anh Bích là chẳng có gì hay ho để trao cho thế hệ các anh đây.”


Tôi đứng dậy, “Thưa bác Bùi Diễm phải không ạ?”


Suốt hơn một tiếng đồng hồ, bác Diễm nói và trả lời những thắc mắc của tôi về các đảng cách mạng Quốc Gia mà bác biết, và chính bác tham gia.


Mối thâm tình của bác Diễm dành cho tôi kể từ đêm đó. Tôi hiểu về bác và thế hệ của bác nhiều hơn khi bác tặng tôi cuốn Gọng Kìm Lịch Sử của bác, với lời bác dặn “chịu khó đọc để biết thế hệ của tôi cũng chịu biết bao thăng trầm với vận nước.”




















 
 Hai Dòng

Mấy năm tháng đầu của Nghị Hội Người Việt Toàn Quốc tại Hoa-kỳ (NCVA), tôi còn bận một số sinh-hoạt khác. Cho đến sau 1990, thì tham-gia nhiều hơn trong các công-tác vận-động cho các đồng-đội đang bị hành-hạ trong cái-gọi-là trại Học Tập Cải Tạo, rồi việc thành-lập Đài Phát Thanh Á-Châu Tự-Do.

Đến khi tôi tiếp nối GS Nguyễn Ngọc Bích điều-hành NCVA thì Đại-sứ Bùi Diễm cũng hiện-diện thưa dần. Rồi không biết từ lúc nào, chúng tôi gặp nhau nhiều hơn, cùng đi đến các sinh-hoạt chung ở bên phía Virginia.

Chính những lúc trao đổi riêng tư mà tôi quý Cụ nhiều, nhiều hơn là đọc những tin-tức, lời bình-luận hay sách "Gọng Kìm Lịch Sử".

Đến khi thường xuyên sang nhà xoa mạc-chược thì phải nói là thân-thiết, tin cậy nhau.

Từ chuyện vui buồn thời xa xưa, như khoe đã thuê nhà gần làng Vỹ Dạ quê tôi, biếu quà Cựu-hoàng Bảo Đại (liên-hệ với nhà tôi).

Cho đến chuyện mới, như Hà-nội tìm mọi cách để được liên-lạc : lấy cớ trao quà từ người quen bên nhà, Đại-sứ muốn đến chúc Tết ... mà Cụ luôn từ-chối, tự cho mình là người mất hết, "chỉ còn chút tư-cách thì cố mà giữ lấy".

Không những tư-cách, Cụ Diễm rất biết giữ thể, không muốn gặp ai khi chưa sẵn-sàng.

Không may cho tài-tử điện-ảnh Kiều Chinh, từ Cali sang giới-thiệu cuốn hồi-ký "Kiều Chinh : Nghệ Sĩ Lưu Vong", xem Cụ như người thân trong nhà, nhưng Cụ không muốn ai thấy mình "không còn thịt", đành nhờ đưa lại, khi tay không còn cầm nổi.

Cụ Ông và Cụ Bà cứ muốn chúng tôi gọi là Anh Chị, lối xưng hô dành cho liên-hệ giữa những thành-viên văn-hóa hay đảng-phái, không thể áp-dụng ở đây, nhất là bà vợ tôi, quý trọng và khen ngợi Cụ Bà hết mực.

Ngoài nhân dáng sang cả, Cụ Bà suốt đời đảm-đang, lo-lắng mọi việc, giúp chồng nuôi con, hai gái một trai, Ngọc-Giao phải đứng tên là nhà sản-xuất phim "Chúng Tôi Muốn Sống" để Cụ Diễm tránh tiếng.

Trong nhà, mọi thứ mang ít nhiều nét thẩm-mỹ, với những bức họa khó tin từ tay Cụ Bà.

(bà NN Bích, NM Trinh, B Diễm)

Có lẽ mạc-chược là sinh-hoạt cuối đời, chấm dứt từ khi đại dịch đến.

Lần gặp chót trước khi đi vào mê sảng, Cụ Diễm cứ nhắc, hỏi "cái ai, gió gì".

Nhưng hôm trước đó, đầu và chân còn rất ấm, Cụ đưa tay bắt khá chặt, nhiều lần lập lại tiếng cám ơn, giọt nước mắt lăn xuống má làm tôi phải quay mặt để khóc.

Dù ở tuổi nào, người ra đi cũng để lại nhiều tiếc nuối.

Từ đầu năm, anh Võ Thành Nhân và chúng tôi đã giữ phòng tại nhà hàng New Fortune để mừng sinh-nhật như trước.

Để rồi nay, mình tôi lặng-lẽ mừng sinh-nhật Cụ nơi phòng bệnh lạnh-lẽo.

Tôi biết đã đến lúc phải chào vĩnh-biệt Cụ.

Nguyễn-mậu Trinh cẩn bái.

 


Cựu Đại Sứ Bùi Diễm Thượng Thọ 99 tuổi

TRUNG QUÂN ÁI QUỐC HỌ BÙI

HÀ NAM PHỦ LÝ ĐỜI ĐỜI VINH HOA

RỒNG TIÊN NGUYÊN THỦY GIỐNG TA

BÁCH GIA HẢI NGOẠI NƯỚC NHÀ RẠNG DANH

Tìm được một tấm ảnh xưa khi Trần Dạ Từ và Nhã Ca chụp hình kỷ niệm tại California với cụ Bùi Diễm (Tháng Bảy 2017): NXN

 SBTN với nhà báo Phạm Trần

Video Tiểu Sử Đại Sứ Bùi Diễm SBTN-DC Phỏng Vấn Ông Bùi Diễm SBTN-DC News: Phỏng Vấn Đặc Biệt Cựu Đại Sứ Bùi Diễm Về Bộ Phim 10 Tập Vietnam War - Phần 1 GIẢI THÍCH THỜI SỰ : Hoa Kỳ đã giấu VNCH những trao đổi với Bắc Việt - Cựu đại sứ Bùi Diễm Năm 2001, BBC phỏng vấn cựu Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Hoa Kỳ, ông Bùi Diễm.

No comments:

Post a Comment