HUNTINGTON BEACH, California (NV) – Cựu Trung Tướng Nguyễn Bảo Trị, cựu tổng cục trưởng Tổng Cục Quân Huấn QLVNCH, vừa qua đời lúc 5 giờ 30 phút sáng Thứ Hai, 8 Tháng Giêng, tại bệnh viện Hoag Health Center, Huntington Beach, hưởng thọ 95 tuổi.
Bà Nguyễn Thị Minh Tâm, phu nhân cố trung tướng, xác nhận tin này với nhật báo Người Việt.
“Mới hôm qua ông còn khỏe, vào cấp cứu được một hôm thì mất,” bà Minh Tâm kể. “Ông bị ung thư phổi cũng hai năm nay, nhưng sức khỏe bình thường vì vẫn được thuốc men đầy đủ. Tự nhiên, ngày hôm qua, ông thấy người hơi yếu, thế là chúng tôi đưa vào bệnh viện.”
Theo “Lược Sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa” của ba tác giả Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, và Lê Đình Thụy, cựu Trung Tướng Nguyễn Bảo Trị sinh ngày 26 Tháng Giêng, 1929, tại Hà Nội.
Năm 1951, ông theo học Khóa 1 Lê Lợi, Trường Sĩ Quan Trừ Bị Nam Định.
Năm 1952, ông làm đại đội trưởng Đại Đội 1, Tiểu Đoàn 18, Việt Nam.
Sau một thời gian, ông lên thiếu tá.
Năm 1955, Thiếu Tá Nguyễn Bảo Trị sang Mỹ học khóa chỉ huy và tham mưu tại Trường Chỉ Huy và Tham Mưu Fort Leavenworth, Kansas.
Năm 1956, sau khi tốt nghiệp, ông trở về nước, được bổ nhiệm làm giám đốc huấn luyện tại Trường Đại Học Quân Sự.
Sau đó, ông tiếp tục được thăng cấp và làm tư lệnh một số sư đoàn Bộ Binh.
Ngày 1 Tháng Mười, 1965, ông được vinh thăng thiếu tướng nhiệm chức. Mười ngày sau, ông nhậm chức tư lệnh Quân Đoàn III và Vùng 3 Chiến Thuật.
Từ Tháng Sáu, 1966, ông được bổ nhiệm làm một số chức vụ như tổng cục trưởng Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị, tổng ủy viên Thông Tin Chiêu Hồi, và phụ tá chiến tranh chính trị tổng tham mưu trưởng Bộ Tổng Tham Mưu.
Trong thời gian này, ông thường tháp tùng Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, chủ tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, công du nước ngoài.
Ngày 1 Tháng Mười Một, 1967, ông được vinh thăng trung tướng nhiệm chức.
Ngày 23 Tháng Hai, 1968, ông được bổ nhiệm làm tổng trưởng Bộ Xây Dựng Nông Thôn.
Tháng Tám, 1969, ông làm chỉ huy trưởng Trường Chỉ Huy và Tham Mưu Đà Lạt.
Năm 1974, ông làm phụ tá quân huấn tổng tham mưu trưởng kiêm tổng cục trưởng Tổng Cục Quân Huấn.
Cố Trung Tướng Nguyễn Bảo Trị từng được Đệ Nhị Bảo Quốc Huân Chương, nhiều huy chương quân sự, dân sự, và ngoại quốc.
Ngoài binh nghiệp, vị cố trung tướng còn viết sách.
Ông là tác giả tập khảo luận “Canh tân trong liên tục lịch sử và vai trò của người trí thức mang quân phục,” xuất bản năm 1965.
Với bút hiệu Cửu Long Giang, cố Trung Tướng Nguyễn Bảo Trị cùng ông Toan Ánh soạn bộ “Việt Nam Chí Lược” gồm có: “Người Việt đất Việt” (1967), “Miền Bắc khai nguyên” (1968), “Cao nguyên miền Thượng” (1969), “Miền Trung kiên dũng,” và “Miền Nam phú cường.” (Đ.D.)
Tên Họ: Nguyễn Bảo Trị (Bảo Giang, Cửu Long Giang)
Ngày và Nơi Sanh: 1929, Hànội
Học Vấn:
Chức vụ hiện tại: Chỉ Huy Trưởng, Đại Học Chỉ Huy và Tham Mưu, QLVNCH Chức vụ quá khứ: Xuất Bản: Tác giả, |
Tôi rất đau buồn báo hung tin cho các anh chị biết là Trung Tướng Nguyễn Bảo Trị 95 tuổi , một người bạn thân tình và một đàn anh tôi vô cùng kính trọng, đã vĩnh viễn ra đi vào 5.30AM sáng hôm nay.
Anh Trung Tướng Nguyễn Bảo Trị đau yếu hơn 2 năm nay rồi, nhờ sự chăm nom đầy tình thương yêu của chị Tâm/ Nguyễn Bảo Trị , mà anh vẫn luôn minh mẫn, ăn uống biết ngon, và có thì giờ tiếp đón , chuyện trò hàn huyên bạn hữu.
Cách đây 1 tuần lễ, anh BS Dương Hông Mô có tới thăm anh TT Nguyễn Bảo Trị và hai anh em chuyện trò với nhau rất là tâm đắc giữa hai người bạn học tại Albert Sarraut thời xa xưa.
Anh BS Mô có gửi cho tôi bức hình hai anh em Trị & Mô chụp chung với nhau tuần trước.
Cả hai anh Dương Hồng Mô, Nguyễn Bảo Trị , và anh Hoàng Cơ Lân là bạn
với nhau tại Albert Sarraut và là đàn anh của tôi.
Sáng hôm nay anh Đại Tá Trần Minh Công tới nhà thăm, thì chị Tâm cho biết anh Trị đã ra đi lúc 5.30AM rồi. (8.1.2024)
Chị Tâm cho biết là ngay hôm qua anh Bảo Trị vẫn mạnh mẽ, chị Tâm pha
trà cho anh uống, thế rồi tối tới , anh kêu khó thở, cháu đưa anh vào
nhà thương, người ta truyền máu cho anh, sau đó thì anh từ từ ra đi.
Ông cha chúng ta vẫn thường nói, ra đi thanh bình như vậy là có Phúc, các cụ gọi là Ngũ Phúc, cái Phúc thứ Năm.
Trong Kinh Thư ( Thượng Thư) , Đức Khổng Phu Tử gọi là Phúc thứ 5 là Thiện Chung :
Khi lâm chung không gặp tai họa, thân thể không đau đớn vì bệnh tật, trong lòng không vương vấn và phiền não, ôn hoà tự tại rời khỏi nhân gian.
Trung Tướng Nguyễn Bảo Trị làm tới chức tướng 3 sao, đã từng nắm Sư Đoàn và Quân Đoàn, đã từng làm Tổng Trưởng trong thập niên 60,
Suốt thời gian làm việc, anh Trị là người Trung Tướng thanh liêm, trung trực, nên anh ra đi lòng thanh thản, không một ưu tư.
"Sinh Vi Tướng , Tử Vi Thần”
Lúc sống làm Tướng, lúc chết làm Thần
Bây giờ TT Nguyễn Bảo Trị đã trở thành Thần rồi, xin anh linh thiêng phù hộ cho chị và các cháu có được một đời sống an vui, bình yên và mạnh khỏe.
Cũng xin anh phù hộ cho mấy người bạn lâu nay vẫn yêu mến anh, tiếp tục có một đời sống thanh bình
Xin các anh chị cầu nguyện cho linh hồn Trung Tướng Nguyễn Bảo Trị sớm về hưởng an lành bên Đức Mẹ Maria và Đức Chúa nơi Thiên Đàng.
Nay kính
Nguyễn Thượng Vũ
Cám ơn hai bạn quý Nguyễn Ngọc Kỳ và Trần Minh Công đã theo dõi và báo tin ngay cho bạn hữu.
- Tổng cục Quân huấn, vào thời tháng 4/1975, nhân sự ở Bộ chỉ huy Tổng cục được phân bổ trách nhiệm như sau:
-Tổng cục trưởng - Trung tướng Nguyễn Bảo Trị
-Tổng cục phó - Đại tá Đặng Đình Thụy[15]
-Phụ tá Tổng cục trưởng - Đại tá Võ Đại Khôi[16]
-Tham mưu trưởng - Đại tá Phạm Tất Thông[17] - Chỉ huy trưởng các Trường đào tạo và Trung tâm Huấn luyện quân sự trực thuộc Tổng cục:
-Trường Chỉ huy & Tham mưu - Trung tướng Phan Trọng Chinh
-Trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt - Thiếu tướng Lâm Quang Thơ
-Trường Bộ binh Thủ Đức - Đại tá Trần Đức Minh[18]
-Trường Thiếu sinh quân - Trung tá Ngô Văn Doanh[19]
-Trường Hạ sĩ quan Đồng Đế - Trung tướng Phạm Quốc Thuần
-Trường Quân y - Đại tá Hoàng Cơ Lân[20]
-Trường Tổng quản trị - Đại tá Nguyễn Sĩ Túc[21]
-Trường Thiết giáp - Đại tá Huỳnh Văn Tám[22]
-Trường Truyền tin - Đại tá Cao Mạnh Thắng[23]
-Trường Pháo binh - Đại tá Hồ Sĩ Khải[24]
-Trường Tiếp vận - Đại tá Trần Văn Lễ[25]
-Trường Công binh - Đại tá Nguyễn Văn Tám[26]
-Trường Sinh ngữ Quân đội - Đại tá Trịnh Đình Phi[27]
-Trường Nữ quân nhân - Trung tá Hồ Thị Vẻ[28]
-Trung tâm Huấn luyện Hải quân - Phó Đề đốc Nguyễn Thanh Châu
-Trung tâm Huấn luyện Không quân - Chuẩn tướng Nguyễn Ngọc Oánh
-Trung tâm Huấn luyện Quang Trung - Thiếu tướng Trần Bá Di
-Trung tâm Huấn luyện Đống Đa - Đại tá Đỗ Trọng Thuần[29]
-Trung tâm Huấn luyện Lam Sơn - Đại tá Nguyễn Hữu Toán[30]
-Trung tâm Huấn luyện Vạn Kiếp - Đại tá Nguyễn Bá Thịnh[31]
-Trung tâm Huấn luyện Chi Lăng - Đại tá Mã Sanh Nhơn[32]
-Trung tâm Huấn luyện Biệt động quân - Đại tá Nguyễn Văn Đại[33]
-Trung tâm Huấn luyện Hòa Cầm - Đại tá Trương Như Phùng[34]
-Nhiều Huy chương quân sự, dân sự và đồng minh
- Người Việt đất Việt.
- Miền Bắc Khai nguyên.
- Cao nguyên miền Thượng.
- Miền Trung Kiên dũng.
- Miền Nam phú cường.
- Thân phụ: Cụ Nguyễn Bảo Nghi (nguyên Hiệu trưởng trường Tiểu học Hàng Than, Hà Nội).
- Thân mẫu: Cụ Nguyễn Thị Nhung
- Nhạc phụ: Cụ Nguyễn Đức Nhuận (1903-2004)
- Bào đệ:
-Ông Nguyễn Bảo Thuỳ (sinh năm 1932 tại Hà Nội, tốt nghiệp khóa 9 Võ bị Đà Lạt. Nguyên là Thiếu tá Chánh Sở An ninh Đô thành Sài Gòn. Ngày 2 tháng 6 năm 1968 tử trận tại quận 5, Sài Gòn trong mặt trận tết Mậu Thân, được truy thăng Trung tá).
-Ông Nguyễn Bảo Tín (sinh năm 1938, tốt nghiệp khóa 17 Võ bị Đà Lạt. Nguyên là Thiếu tá thuộc Binh chủng Thủy quân Lục chiến).
-Ông Nguyễn Bảo Tính (sinh năm 1940, tốt nghiệp khóa 17 Võ khoa Thủ Đức. Nguyên là Đại úy thuộc Binh chủng Lực lượng Đặc biệt). - Phu nhân: Bà Nguyễn Minh Tâm
- ^ Sư đoàn Khinh chiến số 11 được thành lập ngày 1 tháng 8 năm 1955 tại Long Xuyên với danh xưng ban đầu là Sư đoàn Khinh chiến số 1. Ngày 1 tháng 6 năm 1959 hợp cùng với Sư đoàn Khinh chiến số 13 để thành lập Sư đoàn 21 Bộ binh.
- ^ Tổng cục Chiến tranh Chính trị, trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
- ^ Trường Chỉ huy và Tham mưu được thành lập vào tháng 6 năm 1952 tại miền Bắc Việt Nam với danh xưng ban đầu là Trung tâm Huấn luyện Chiến thuật Hà Nội, sau tháng 7 năm 1954 di chuyển vào Sài Gòn đổi tên là trường Đại học Quân sự. Năm 1960 di chuyển lên Đà Lạt đổi tên lần cuối thành trường Chỉ huy và Tham mưu.
- ^ Tổng cục Quân huấn trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
- ^ Trường Chu Văn An đương thời là một trường Trung học danh tiếng dạy theo giáo trình Pháp ở Hà Nội, còn có tên là "Trường Bưởi" vì trường có vị trí tại địa danh cùng tên. Bạn thân cùng lớp với ông vào thời điểm bấy giờ có Nguyễn Cao Kỳ và Lê Nguyên Khang, hai người sau này cũng là sĩ quan cấp tướng giữ chức vụ cao cấp trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
- ^ Vào thời điểm Quân đội Quốc gia Việt Nam mới hình thành (1950), vì nhu cầu sĩ quan người Việt cho Quân đội nên Chính phủ đã mở ra hai trường Sĩ quan Trừ bị để tiếp nhận các thí sinh trên toàn quốc hội đủ điều kiện để huấn luyện và đào tạo. Miền bắc đặt tại Nam Định, miền nam đặt ở Thủ Đức. Cả hai trường đều khai giảng và kết thúc khóa học đầu tiên cùng một thời điểm (khóa 1 Nam Định lấy tên Lê Lợi, khóa 1 Thủ Đức lấy tên Lê Văn Duyệt). Tuy nhiên trường ở Nam Định chỉ đào tạo sĩ quan một khóa duy nhất là khóa Lê Lợi. Về sau các thí sinh sĩ quan trừ bị đều nhập học vào trường Thủ Đức.
- ^ Sĩ quan tốt nghiệp trường võ khoa Nam Định sau này lên cấp tướng còn có:
-Trung tướng Lê Nguyên Khang
-Các Thiếu tướng: Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Duy Hinh
-Các Chuẩn tướng: Nguyễn Chấn, Nguyễn Văn Lượng, Phạm Hữu Nhơn, Vũ Đức Nhuận, Đặng Cao Thăng, Phan Phụng Tiên và Nguyễn Hữu Tần - ^ Trung tá Lê Quang Trọng sinh năm 1925 tại Thừa Thiên, tốt nghiệp khóa 2 trường Võ bị Huế (nguyên Tư lệnh đầu tiên binh chủng TQLC), được cử đi làm Tư kệnh sư đoàn 2 dã chiến (tiền thân của sư đoàn 2 bộ binh). Sau cùng là Đại tá Tư lệnh sư đoàn 23 bộ binh, giải ngũ năm 1964.
- ^ Trung tá Trần Thanh Chiêu tốt nghiệp khóa 5 Võ bị Liên quân Đà Lạt. Cấp bậc sau cùng là Đại tá
- ^ Đại tá Huỳnh Văn Tồn tốt nghiệp khóa 3 Võ bị Đà Lạt. Nguyên Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Gia Định trước khi Tư lệnh sư đoàn 7 bộ binh. Ngày 13 tháng 9 năm 1964 tham gia cuộc "Biểu dương Lực lượng" âm mưu đảo chính tướng Nguyễn Khánh do tướng Dương Văn Đức cầm đầu, bị đưa ra Hội đồng kỷ luật và năm 1965 bị buộc giải ngũ.
- ^ Tướng Viên được chuyển về trung ương và được bổ nhiệm chức vụ Tổng tham mưu trưởng Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
- ^ Tướng Cao được cử đi làm Tư lệnh Quân đoàn I và Vùng 1 chiến thuật thay thế Trung tướng Tôn Thất Đính tong giai đoạn xảy ra vụ ""Biến động miền Trung".
- ^ Tướng Thắng được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Quân đoàn IV và Vùng 4 chiến thuật thay thế Thiếu tướng Nguyễn Văn Mạnh được triệu hồi về Bộ Tổng Tham mưu giữ chức vụ Tổng Thanh tra Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
- ^ Trung tướng Phan Trọng Chinh, nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Quân huấn thay thế Trung trướng Nguyễn bảo Trị làm Chỉ huy trưởng trường Chỉ huy và Tham mưu
- ^ Đại tá Đặng Đình Thụy sinh năm 1929 tại Hà Nội, tốt nghiệp khóa 2 trường Võ bị Huế
- ^ Đại tá Võ Đại Khôi sinh năm 1932 tại Thừa Thiên, tốt nghiệp khóa 3 Võ bị Đà Lạt
- ^ Đại tá Phạm Tất Thông sinh năm 1927 tại Hà Nam, tốt nghiệp khóa 3 Võ bị Đà Lạt (là trưởng nam của cựu Đại tá Phạm Văn Cảm sinh năm 1904 tại Hà Nam, xuất thân từ trường Thiếu sinh quân Pháp, tốt nghiệp trường Võ bị Saint Cyr Pháp, sĩ quan người Việt đầu tiên thay sĩ quan người Pháp Chỉ huy trưởng trường sĩ quan trừ bị Thủ Đức từ năm 1953 đến 1956)
- ^ Đại tá Trần Đức Minh sinh năm 1932 tại Thái Bình, tốt nghiệp khóa 3 phụ Võ khoa Thủ Đức. Đầu tháng 4/1975 thay thế Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi được bổ nhiệm chức Tư lệnh phó Quân đoàn III
- ^ Trung tá Ngô Văn Doanh tốt nghiệp Võ bị Đà Lạt
- ^ Đại tá Hoàng Cơ Lân sinh năm 1932 tại Hà Nội, tốt nghiệp Đại học Quân y Sài Gòn
- ^ Đại tá Nguyễn Sĩ Túc sinh năm 1923 tại Hải Dương, tốt nghiệp Võ bị Địa phương Bắc Việt
- ^ Đại tá Huỳnh Văn Tám tốt nghiệp trường Võ khoa Thủ Đức
- ^ Đại tá Cao Mạnh Thắng sinh năm 1928 tại Nam Định, tốt nghiệp khóa 3 Võ bị Đà Lạt
- ^ Đại tá Hồ Sĩ Khải sinh năm 1930 tại Khánh Hòa, tốt nghiệp khóa 3 Võ khoa Thủ Đức
- ^ Đại tá Trần Văn Lễ sinh năm 1929 tại Gò Công, tốt nghiệp khóa 1 Võ khoa Thủ Đức
- ^ Đại tá Nguyễn Văn Tám sinh năm 1927 tại Gia Định, tốt nghiệp khóa 1 Võ khoa Thủ Đức
- ^ Đại tá Trịnh Đình Phi sinh năm 1931, tốt nghiệp khóa 3 Võ khoa Thủ Đức
- ^ Nữ Trung tá Hồ Thị Vẻ tốt nghiệp khóa 2 Sĩ quan Nữ quân nhân
- ^ Đại tá Đỗ Trọng Thuần sinh năm 1929 tại Hà Nam, tốt nghiệp khóa 3 Võ bị Đà Lạt
- ^ Đại tá Nguyễn Hữu Toán sinh năm 1930 tại Nam Định, tốt nghiệp Võ khoa Nam Định
- ^ Đại tá Nguyễn Bá Thịnh sinh năm 1928 tại Hòa Bình, tốt nghiệp khóa 8 Võ bị Đà Lạt
- ^ Đại tá Mã Sanh Nhơn tốt nghiệp Võ khoa Thủ Đức
- ^ Đại tá Nguyễn Văn Đại sinh năm 1931 tại Vĩnh Yên, tốt nghiệp khóa 5 Võ bị Đà Lạt
- ^ Đại tá Trương Như Phùng sinh năm 1934 tại Thừa Thiên, tốt nghiệp khóa 8 Võ bị Đà Lạt
- Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy (2011). Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
Chức vụ | |
---|---|
Nhiệm kỳ | 1/1974 – 4/1975 |
Cấp bậc | -Trung tướng |
Tiền nhiệm | -Trung tướng Phan Trọng Chinh |
Kế nhiệm | Sau cùng |
Vị trí | Biệt khu Thủ đô |
Tổng cục phó Tham mưu trưởng | -Đại tá Đặng Đình Thụy -Đại tá Phạm Tất Thông |
Nhiệm kỳ | 8/1969 – 1/1974 |
Cấp bậc | -Trung tướng |
Tiền nhiệm | -Đề đốc Chung Tấn Cang |
Kế nhiệm | -Trung tướng Phan Trọng Chinh |
Vị trí | Quân khu II |
Nhiệm kỳ | 1/1968 – 8/1969 |
Cấp bậc | -Trung tướng |
Tiền nhiệm | -Thiếu tướng Nguyễn Đức Thắng |
Vị trí | Biệt khu Thủ đô |
Thủ tướng | -Nguyễn Văn Lộc |
Nhiệm kỳ | 7/1966 – 1/1968 |
Cấp bậc | -Thiếu tướng -Trung tướng (11/1967) |
Tiền nhiệm | -Luật sư Trịnh Đình Chính |
Vị trí | Biệt khu Thủ đô |
Thủ tướng | -Nguyễn Cao Kỳ |
Nhiệm kỳ | 6/1966 – 12/1966 |
Cấp bậc | -Thiếu tướng |
Tiền nhiệm | -Thiếu tướng Huỳnh Văn Cao |
Kế nhiệm | -Chuẩn tướng Trần Văn Trung |
Vị trí | Biệt khu Thủ đô |
Nhiệm kỳ | 10/1965 – 6/1966 |
Cấp bậc | -Thiếu tướng |
Tiền nhiệm | -Trung tướng Cao Văn Viên |
Kế nhiệm | -Thiếu tướng Lê Nguyên Khang |
Vị trí | Vùng 3 chiến thuật |
Nhiệm kỳ | 9/1964 – 10/1965 |
Cấp bậc | -Đại tá -Chuẩn tướng (10/1964) -Thiếu tướng (10/1965) |
Tiền nhiệm | -Đại tá Huỳnh Văn Tồn |
Kế nhiệm | -Đại tá Nguyễn Viết Thanh |
Vị trí | Vùng 4 chiến thuật |
Nhiệm kỳ | 9/1959 – 11/1963 |
Cấp bậc | -Trung tá -Đại tá (11/1963) |
Tiền nhiệm | -Trung tá Trần Thanh Chiêu |
Kế nhiệm | -Đại tá Nguyễn Thanh Sằng |
Vị trí | Vùng 2 chiến thuật |
Nhiệm kỳ | 10/1957 – 9/1959 |
Cấp bậc | -Trung tá |
Tiền nhiệm | -Trung tá Lê Quang Trọng |
Nhiệm kỳ | 4/1956 – 10/1957 |
Cấp bậc | -Thiếu tá (8/1955) -Trung tá (10/1957) |
Thông tin chung | |
Quốc tịch | Hoa Kỳ Việt Nam Cộng hòa |
Sinh | 26 tháng 1 năm 1929 Hà Nội, Liên bang Đông Dương |
Nơi ở | California, Hoa Kỳ |
Nghề nghiệp | Quân nhân |
Dân tộc | Kinh |
Vợ | Nguyễn Minh Tâm |
Cha | Nguyễn Bảo Nghi |
Mẹ | Nguyễn Thị Nhung |
Họ hàng | Nguyễn Đức Nhuận (cha vợ) Các em: Nguyễn Bảo Thùy Nguyễn Bảo Tín Nguyễn Bảo Tính |
Con cái | 5 người con (1 trai, 4 gái) |
Học vấn | Tú tài bán phần |
Trường lớp | -Trường Trung học Chu Văn An, Hà Nội -Trường Sĩ quan Trừ bị Nam Định -Học viện Chỉ huy và Tham mưu Fort Leavenworth, Kansas, Hoa Kỳ |
Quê quán | Bắc Kỳ |
Binh nghiệp | ||
---|---|---|
Thuộc | Quân lực Việt Nam Cộng hòa | |
Phục vụ | Việt Nam Cộng hòa | |
Năm tại ngũ | 1951 - 1975 | |
Cấp bậc | Trung tướng | |
Đơn vị | Sư đoàn 11 Khinh chiến[1] Sư đoàn 22 Bộ binh Sư đoàn 7 Bộ binh Quân đoàn III và QK 3 Tổng cục CTCT[2] Chỉ huy Tham mưu[3] Tổng cục Quân huấn[4] | |
Chỉ huy | Quân đội quốc gia Quân lực Việt Nam Cộng hòa | |
Tham chiến | Chiến tranh Việt Nam | |
Khen thưởng | Bảo quốc Huân chương | đệ Nhị đẳng |
Tr/Tướng Nguyễn Bảo Trị; Nguyễn Khánh; Nguyễn Văn Thiệu; Trần Văn Trung; Hoàng Xuân Lãm; Nguyễn Chánh Thi; Vĩnh Lộc và Nguyễn Hữu Có .
No comments:
Post a Comment