Tháng 9/19 69 đến tháng 04/1975 Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Quốc Phòng VNCH.
Năm 1969? đến tháng 09/1969 Phó Thủ Tướng
Tháng 05/1968 đến năm 1969 Tổng Trưởng Nội Vụ.
Tháng 10/1965 đến tháng 05/1968 Đại Sứ VNCH tại Đài Bắc.
Tháng 10/19 64 đến tháng 10/1965 Đại Sứ VNCH tại Hoa Kỳ.
Tháng 07/1964 Thăng Đại Tướng.
Tháng 01/1964 đến tháng 09/1964 TTQP kiêm TTMT QLVNCH.
Tháng 12/1963 đến tháng 01/1964 Tư Lệnh Quân Đoàn 3.
Tháng 11/1963 Thăng Trung Tướng.
Tháng 12/1962 Thăng Thiếu Tướng.
Tháng 12/1962 đến tháng 11/1963 Tham Mưu Trưởng Liên Quân.
Tháng 02/1960 đến tháng 12/1962 Tư Lệnh SĐ21BB kiêm TL QK5.
Năm 1958 đến tháng 02/1960 Tư Lệnh Sư Đoàn 4 Dã Chiến.
Năm 1957 đến năm 1958 Tu nghiệp khóa CH&TM cao cấp tại Hoa Kỳ.
Tháng 08/1957 Đại Tá Xử Lý thường vụ Tham Mưu Trưởng BTTM.
Tháng 07/1954 Thiếu Tá rồi Trung Tá TM Phó Tiếp Vận BTTM.
Tháng 07/1948 Thiếu Úy SQ tập sự Vệ Binh Nam Phần.
Năm 1946 đến năm 1947 Chuẩn Uý HSQ cao cấp Viễn Đông (Đập Đá)
Nhan Hữu Hiệp
Đại Tướng Trần Thiện Khiêm. (https://en.wikipedia.org)
——————————-
Trần Thiện Khiêm (chữ Hán: 陳善謙; sinh 1925) là một trong 5 quân nhân thụ
phong cấp bậc Đại tướng Quân lực Việt Nam Cộng hòa, từng là tướng lĩnh
giữ vai trò quan trọng trong các cuộc đảo chính quân sự tại Việt Nam
Cộng hòa trong những năm 1963-1964. Ông cũng là một chính khách và là
người từng giữ chức vụ Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa trong thời gian lâu
nhất: 6 năm.
Ông sinh ngày 15 tháng 12 năm 1925 tại Châu Thành, Long An, trong một
gia đình đại điền chủ giàu có. Do điều kiện gia đình, ông có một nền học
vấn cơ bản tốt, đã tốt nghiệp trung học phổ thông chương trình Pháp với
văn bằng Tú tài.
Năm
1945, ông tham gia phong trào Việt Minh. Khi Pháp tái chiếm Nam Bộ, ông
cùng các bạn hữu rút vào chiến khu 8, chiến đấu dưới quyền khu trưởng
Trần Văn Trà một thời gian ngắn, sau đó lại trở về thành.
Năm 1946, ông nhập ngũ vào Quân đội Pháp. Do có trình độ Tú tài, ông
được cho theo học khoá 1 Trường Võ bị Liên quân Viễn Đông Đà Lạt (còn
gọi là khoá Nguyễn Văn Thinh). Thời gian theo học tại đây, ông có quan
hệ thân tình với một số học viên trẻ khác như Nguyễn Khánh, Lâm Văn Phát
và Trần Đình Lan.
Giữa năm 1947, ông tốt nghiệp với cấp bậc
Chuẩn úy và tiếp tục trong Quân đội Liên hiệp Pháp tại các đơn vị người
bản xứ. Tháng 7 năm 1948, ông là sĩ quan tập sự trong lực lượng Vệ binh
Nam Phần, phục vụ Đại đội 1 thuộc Tiểu đoàn 3 Việt Nam và đầu tháng 8
ông được thăng cấp Thiếu úy.
Năm 1950, ông được chuyển ngạch sang Quân đội Quốc gia Việt Nam và được
thăng cấp Trung úy, được điều làm chỉ huy một đơn vị đồn trú tại Mông
Thọ, Rạch Giá. Năm 1952, thăng Đại úy, điều đi Tiểu khu Hưng Yên làm
Trưởng ban 3 của Liên đoàn Lưu động số 2 đồn trú tại Ninh Giang. Tại đây
ông kết thân với 2 sĩ quan người Việt là Trung úy Nguyễn Văn Thiệu và
Trung úy Cao Văn Viên. Bộ 3 này về sau là những người có thế lực nhất
trong nền Đệ nhị Cộng hòa.
Tháng 9 năm 1953, ông được chuyển sang
phục vụ tại Liên đoàn Lưu động số 3 đồn trú tại Ninh Bình do Thiếu tá
Phạm Văn Đổng làm Chỉ huy trưởng. Tháng 7 năm 1954, ông làm Trưởng phòng
3 Đệ nhị Quân khu, đến cuối năm thì được thăng cấp Thiếu tá, Tham mưu
trưởng Đệ nhị Quân khu. Tháng 8 năm 1955, ông được thăng Trung tá giữ
chức vụ Tham mưu Phó Tiếp vận Bộ Tổng tham mưu Quân đội Quốc gia Việt
Nam.
Do có công ủng hộ Thủ tướng Ngô Đình Diệm phế truất Quốc trưởng Bảo Đại,
tháng 8 năm 1957 ông được thăng cấp Đại tá giữ chức Xử lý thường vụ
Tham mưu trưởng Bộ Tổng tham mưu. Sau đó ông được cử đi tu nghiệp khóa
Chỉ huy và Tham mưu cao cấp tại Học viện Fort Leavenworth, Kansas, Hoa
Kỳ.
Sau khi về nước năm 1958, ông được cử làm Tư lệnh Sư đoàn 4 Dã chiến (sau đó được cải danh thành Sư đoàn 7 Bộ binh). Tháng 2 năm 1960, được chuyển sang làm Tư lệnh Sư đoàn 21 Bộ binh kiêm Tư lệnh Quân khu 4, phụ trách vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Khi cuộc đảo chính quân sự 1960 nổ ra, ông chỉ huy Sư đoàn kéo về Sài Gòn để giải vây cho Tổng thống Ngô Đình Diệm. Do hành động giải vây trên, ông rất được Tổng thống Diệm tín nhiệm. Tháng 12, ông được thăng cấp Thiếu tướng và giữ chức Tham mưu trưởng Liên quân, thay cho người tiền nhiệm là tướng Nguyễn Khánh vừa được điều vào chức vụ Tư lệnh Quân đoàn II.
Giữa
năm 1963, Tổng tham mưu trưởng Đại tướng Lê Văn Tỵ sang Hoa Kỳ chữa
bệnh. Ông được chỉ định kiêm Xử lý thường vụ Tổng tham mưu trưởng cho
đến tháng 8 thì Trung tướng Trần Văn Đôn mới được chỉ định làm quyền
Tổng tham mưu trưởng.
Tuy vậy, tướng Khiêm lại là một trong những tướng lĩnh chủ chốt tham gia
cuộc Đảo chính. Với cương vị Tham mưu trưởng Liên quân, tướng Khiêm
được cho là có những động thái tích cực để vạch kế hoạch và điều động
các đơn vị tham gia đảo chính vào Sài Gòn cũng như cách ly các đơn vị
trung thành với tổng thống Diệm. Sau cuộc đảo chính, ông được thăng
Trung tướng kiêm chức Ủy viên Quân sự trong Hội đồng Quân nhân Cách mạng
do Trung tướng Dương Văn Minh làm Chủ tịch.
Đầu năm 1964, ông được bổ nhiệm vào chức vụ Tư lệnh Quân đoàn III, kiêm Tổng trấn Sài Gòn thay cho tướng Tôn Thất Đính. Tuy nhiên, chỉ một tháng sau, ông cùng với người bạn cũ là tướng Nguyễn Khánh đã thực hiện cuộc “chỉnh lý” chớp nhoáng, cướp quyền của Hội đồng Quân nhân Cách mạng, đưa tướng Khánh lên nắm quyền tối cao. Để trả công, ông được tướng Khánh giao giữ chức Tổng trưởng Quốc phòng, kiêm Tổng Tư lệnh Quân lực. Ngày 11 tháng 8, ông được thăng cấp Đại tướng và trở thành người thứ 2 sau tướng Lê Văn Tỵ thụ phong hàm Đại tướng của Việt Nam Cộng hòa.
Nhằm dung hòa mâu thuẫn giữa các tướng
lĩnh, giải pháp “Tam đầu chế” ra đời. Trong một thời gian ngắn, từ 27
tháng 8 đến 8 tháng 9, ông tham gia Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia cùng với 2
tướng Dương Văn Minh và Nguyễn Khánh.
Thắng làm vua, thua làm đại sứ
Tuy nhiên, mâu thuẫn quyền lực đã nảy sinh với ông bạn cũ Nguyễn Khánh. Để bảo đảm quyền lực tuyệt đối, tướng Khánh khó mà chấp nhận người bạn đã nhiều lần tổ chức đảo chính và đã đưa mình lên vị trí quyền lực. Cho rằng tướng Khiêm đứng đằng sau cuộc binh biến của tướng Dương Văn Đức ngày 13 tháng 9 năm 1964, ngày 24 tháng 10 năm 1964, ông bị tướng Khánh tước mọi chức vụ và được “cử” làm Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Hoa Kỳ, thực chất là một hình thức đẩy đi lưu vong ở nước ngoài.
Sau khi nhóm các tướng trẻ do tướng Nguyễn
Cao Kỳ và một người bạn cũ của tướng Khiêm là tướng Nguyễn Văn Thiệu
cầm đầu, đã buộc tướng Khánh phải rời khỏi chức vụ để “làm” đại sứ lưu
động, tướng Khiêm đã có hy vọng trở về. Tuy nhiên, tháng 19-1965, nhóm
tướng Kỳ một lần nữa lại đẩy ông làm Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Đài
Loan (Trung Hoa Dân Quốc).
Trở về nắm quyền
Mãi đến năm 1967, Nguyễn Văn Thiệu sau khi đã ngồi chắc vào chiếc ghế
Tổng thống, đã dùng nhiều biện pháp để loại trừ vây cánh của tướng
Nguyễn Cao Kỳ (lúc đó đã là Phó tổng thống), tháng 5 năm 1968, ông mới
được triệu hồi về nước và được giao chức vụ Tổng trưởng Nội vụ trong
chính phủ Trần Văn Hương. Đầu năm 1969, ông được cử làm Phó Thủ tướng.
Tháng 8 năm 1969, ông được Tổng thống Thiệu chỉ định làm Thủ tướng và
lập chính phủ mới. Khi tướng Nguyễn Văn Vỹ bị cách chức Tổng trưởng Quốc
phòng năm 1972, ông kiêm nhiệm luôn chức vụ này cho đến tận tháng 4 năm
1975.
Lưu vong lần thứ hai
Tháng 3 năm 1975, sau khi VC đã kiểm soát được hầu hết miền Trung và Cao nguyên, trước áp lực của Hoa Kỳ đòi hỏi phải có một cuộc cải tổ sâu rộng thành phần chính phủ để ổn định nội tình Miền Nam và có đủ sức mạnh để đối thoại với phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã yêu cầu ông từ chức để mời Nguyễn Bá Cẩn thành lập chính phủ mới. Ngày 5 tháng 4 năm 1975, ông chính thức từ chức rời khỏi chức vụ. Ngày 21 tháng 4, đến lượt tổng thống Thiệu cũng từ chức, giao quyền Tổng thống cho phó Tổng thống Trần Văn Hương. Đêm ngày 24 tháng 4, ông cùng với cựu Tổng thống Thiệu rời khỏi Việt Nam sang Đài Loan. Sau đó qua định cư tại Hoa Kỳ.
Những giờ phút cuối cùng của ông tại Việt Nam được cựu điệp viên CIA Frank Snepp ghi lại trong quyển “Decent Interval” như sau:
“
Khoảng 5giờ chiều 25 tháng 4 năm 1975, Polgar gọi tôi, Joe Kingsley, tướng Timmes và một nhân viên khác của sở đến văn phòng: “Các anh có thể tìm đường quanh Sài Gòn ban đêm?…”. “Tốt”. “Vì tôi muốn các anh giúp tôi đưa Thiệu và Thủ tướng Khiêm đi Đài Loan tối nay”. Đại sứ Martin sau này thú nhận với tôi là ông đã tiếc vì đã nhờ Polgar Giám đốc CIA ở Việt Nam, thay vì nhờ cơ quan DAO và than phiền Polgar đã không làm được việc giao phó cho đúng. “Tôi đã yêu cầu ông ấy đánh máy hồ sơ cần thiết cho Thiệu và đem theo với ông ấy khi các anh vào Tân Sơn Nhất. Nhưng ông ấy không làm được. Ông ấy quên giấy. Ông ấy bảo là không tìm thấy bàn đánh máy chữ”. Kết quả là Thiệu rời khỏi xứ trên máy bay Mỹ mà không có giấy tờ chấp thuận của Việt Nam hay phía Mỹ.
Timmes, hai nhân viên khác và tôi lấy ba chiếc Limousine từ nhà xe của cơ quan CIA khoảng 8giờ 30 tối và lái xe đến Bộ Tư lệnh Quân đội miền Nam ngoài Tân Sơn Nhất nơi Khiêm cư ngụ…
Ngay
sau 9 giờ tối, Polgar đến nhà Khiêm với xe riêng và tài xế. Trong khi
ông ta uống rượu với Khiêm và Timmes trong nhà, tất cả chúng tôi ra
ngoài sân nghỉ chân….
”Sau khi sang Mỹ, ông cùng gia đình định cư tại Virginia, rồi chuyển sang Houston, Texas.
Gia đình
Ông có 3 người anh trai:
Trần Thiện Khởi, cựu Tổng giám đốc Quan thuế Việt Nam Cộng hòa
Trần Thiện Phương, cựu Giám đốc Thương cảng Gài Gòn
Trần Thiện Ngươn, Đại tá Việt Nam Cộng hòa
Phu nhân: Bà Đinh Thùy Yến (1934-2004), còn gọi là Tư Nết, tên Pháp là
Annette, con gái một đại điền chủ vùng Rạch Giá. Về sau bà từng trúng cử
Dân biểu Quốc hội Việt Nam Cộng hòa (1959-1963).
Trần Hiếu
“Lạy Chúa, dù qua thung lũng âm u, con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng.” TV 23:4
Từ khi lãnh nhận bí tích Rửa tội để trở thành con cái Chúa cách đây hơn một năm, ông Trần Thiện Khiêm, nguyên Thủ tướng VNCH, 94 tuổi, bây giờ trở nên khác trước. Ông nói, cảm nghiệm “Thiên Chúa ở cùng” làm ông luôn cảm thấy an tâm, thư thái và vui vẻ.
Dù đã an dưỡng tuổi già từ lâu, ông vẫn hay cảm thấy căng thẳng, tâm hồn nặng trĩu những lo lắng, ưu tư. Anh Bá, người cháu gọi ông bằng chú, nói rằng từ khi theo đạo, ông vui vẻ hẳn lên, điều gì ông cũng nói “Chúa sẽ lo liệu”.
Mỗi sáng sớm ông bắt đầu một ngày với làm dấu thánh giá và đọc những câu kinh quen, kinh Lạy Cha, kinh về Đức Mẹ, và suy niệm. Mỗi tối ông cũng làm như vậy. Vào mỗi Chúa Nhật, vì sức khỏe kém không thể đến nhà thờ, ông dự lễ qua màn ảnh Tivi.
Ông nói, “Đức tin tôi còn yếu kém, nhưng tôi cảm nhận được Thiên Chúa thứ tha, được Ngài gánh mọi tội lỗi của mình, được Ngài thương cứu mình, và không để mình hư mất”. Với tư tưởng Thiên Chúa hiện diện nơi mình, ông sẵn sàng để Chúa dẫn dắt và quên đi chính mình: “Khi thấy Chúa vì mình mà khổ đau, tôi cũng học chấp nhận những hiểu lầm và tổn thương nên cảm thấy nhẹ lòng.”
Đầu năm 2018, khi đang nằm điều trị tại dưỡng đường Mission De La Casa, San Jose, của Bác sĩ Ngãi, do bị gãy xương chân, ông Khiêm hỏi chị Mai, một người thân quen giúp chăm sóc ông, “Chị có biết ông linh mục nào ở gần đây không, tôi muốn gặp?” Lúc ấy, thấy cha Justin Lê Trung Tướng đang viếng thăm cụ thân sinh của cha dưỡng bệnh ở phòng bên cạnh, chị Mai liền mời đến gặp ông Khiêm.
Khi ông Khiêm ngỏ lời muốn theo đạo, cha chỉ hỏi ông một số điều cần tin trong kinh Tin Kính, rồi sắp xếp lễ rửa tội cho ông. Thông thường, một người muốn theo đạo cần được hướng dẫn giáo lý một thời gian, nhưng với ông Khiêm, đức tin dường như đã có đó, nên cha thấy không cần phải qua các thủ tục thông thường.
Trong bài giảng lễ, cha nói, “Bản thân cụ khi chưa là tín hữu Công Giáo đã xác tín mình là con Chúa. Bây giờ, trở nên tín hữu là dịp để tạ ơn Chúa. Cụ xác tín Chúa yêu thương và sắp xếp mọi việc tốt đẹp theo thánh ý Ngài… Được rửa tội là được sinh ra trong ơn nghĩa Chúa hôm nay và mãi mãi. Chọn Chúa là xin Chúa dẫn đến quê trời với sự sống đời đời.”
Ông Khiêm sinh ngày 15/12/1925 tại Châu Thành, Long An. Với phép rửa tội, ngày 25/3/2018 là ngày sinh nhật mới của ông, được sinh ra trong đức tin. Ông nói, ông theo đạo là do ý muốn của mình, không có gì ràng buộc hoặc ai thúc ép gì cả.
Ông kể, lúc còn niên thiếu 9, 10 tuổi, sống ở xóm gần nhà thờ Huyện Sĩ, Sài Gòn, ông sinh hoạt với các bạn cùng trang lứa trong đoàn Hùng Tâm Dũng Chí, rồi được học trường đạo nên hiểu biết ít nhiều câu kinh và lẽ đạo. Khi ở trong quân đội, nhiều bạn Mỹ vẫn hay gọi ông là “Catholic Khiêm.” Ông chẳng đính chính, “vì thấy mình cũng như là người có đạo, mặc dầu chưa được rửa tội.”
Trong gia đình dòng tộc của ông đã có nhiều người theo đạo, gồm cả cô em gái, những đứa cháu, người anh em họ là cụ Nguyễn Văn Huyền, Chủ tịch Thượng Viện VNCH… Nhưng khi ông muốn chính thức là tín hữu Công Giáo, con đường dẫn đến đức tin cũng không khỏi gập ghềnh.
Cách đây năm năm, qua sự sắp xếp của Thiếu tướng Nguyễn Khắc Bình và vài người bạn trong Phong trào Cursillo Việt Nam tại San Jose, ông đã gặp và trò chuyện lâu giờ với Đức Cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp, một người ông có mối đồng cảm sâu đậm. Cuộc gặp gỡ nhằm trao đổi nhiều vấn đề, và họ không quên nói đến vấn đề tâm linh. Sau cuộc gặp tại San Jose nầy, ý định chịu phép rửa tội càng thôi thúc ông. Từ đó, các bạn chuẩn bị các bước cho ông vào đạo, và ông ước mong được dịp Đức Cha Hợp ban phép rửa tội cho.
Nhưng điều ông mong muốn đã không xảy ra. Khi trở về nhà tại San Diego, ông đã bị té và việc học đạo để lãnh nhận bí tích bị gián đoạn. Những ngày đầu năm dương lịch 2018, sau khi sức khỏe được phục hồi, ông lại lên San Jose gặp gỡ bạn bè và tham dự một buổi tiệc của đồng hương Miền Nam. Sau buổi tiệc, ông lại bị té, và phải vào bệnh viện để chữa trị. Sau khi vết thương thuyên giảm, ông được đưa vào tĩnh dưỡng ở dưỡng đường. Ông nói, lúc nầy cảm thấy buồn, cô đơn và cũng là lúc mà tia sáng đức tin hiện đến, tâm hồn ước mong vươn ra xa cái hạn hẹn của cuộc sống hằng ngày.
Khi chọn tên thánh rửa tội, ông phân vân giữa Thánh Phêrô và Thánh Phaolô, một người chối Chúa, một người bách hại đạo Chúa, nhưng cả hai đều thay đổi, trở nên những môn đệ mến Chúa hết lòng. Cuối cùng, ông chọn tên thánh Phaolô, một người đã té ngã và được Chúa cho trỗi dậy.
Hồi tưởng lại quá khứ, ông nói, người ảnh hưởng sâu xa trong việc theo đạo của ông là là Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận. Khi lưu vong, ông được Tổng Thống Thiệu mời về nước, và người hay tới thăm và an ủi nhiều là Đức Cha Thuận. Chính thái độ và tấm lòng bao dung của Đức Cha đã làm ông hết sức cảm động và nhìn thấy hình ảnh Thiên Chúa hiện diện.
Theo đạo, ông cảm thấy mình không hết khó khăn và thử thách, nhưng không thấy cô đơn. Ngoài việc đọc kinh mỗi ngày, ông còn đọc Thánh Kinh, nghe nhạc đạo, theo dõi các diễn biến thời sự, trò chuyện với bạn bè. Ông còn quen thêm các bạn mới trong đạo. Gặp gỡ bạn bè giúp ông tìm thấy niềm vui mỗi ngày.
Ông nói, “Thật cảm động, sau khi tôi theo đạo vài tháng, Đức Cha Hợp sang Hoa Kỳ thăm tôi. Tôi cũng có dịp gặp lại cha Tướng, người đã ban phép rửa tội cho tôi, các cha và nhiều người bạn ở San Jose”. Với ân sủng đức tin, ông thấy không còn ước ao gì nữa, chỉ mong đến ngày được về với Chúa trong an bình.
Trong nhiều bản thánh ca ưa thích, ông thích nhất bài “Năm xưa trên cây sồi”, là bài ông nghe mỗi ngày, vì bài ca phản ảnh tâm tư của ông. Bài ca cũng nguyện cầu cho đất nước và dân tộc mà ông hằng yêu mến, “Mẹ Maria ơi, Mẹ Maria ôi, con vâng nghe Mẹ rồi, sớm chiều từ nay thống hối; Mẹ Maria ơi, Mẹ Maria ôi, xin Mẹ đoái thương nhậm lời, cho nước Việt xinh tươi, đức tin sáng ngời…”
*Trần Hiếu, giáo dân Giáo xứ Việt Nam Đức Mẹ La Vang, tốt nghiệp Học Viện Lãnh Đạo Mục Vụ, Giáo Phận San Jose, khóa năm 2001.