Chuẩn TướngTrần Quang Khôi, Ông xuất thân từ những khóa đầu tiên ở trường Võ bị Liên quân do Chính phủ Quốc gia thành lập trên cơ sở trước đó là trường Võ bị Liên quân Viễn Đông của Quân đội Pháp. Được sự hỗ trợ huấn luyện của Quân đội Pháp nhằm mục đích đào tạo sĩ quan người Việt phục vụ Quân đội Quốc gia trong Quân đội Liên hiệp Pháp. Thời gian tại ngũ, ông đã tuần tự giữ từ chức vụ nhỏ trong chuyên ngành của mình cho đến chức vụ Chỉ huy một đơn vị Kỵ binh cấp Lữ đoàn, trách nhiệm yểm trợ cho một Quân khu.
Tiểu sử & Binh nghiệp
Ông sinh ngày 24 tháng 1 năm 1930 trong một gia đình đại điền chủ giàu có. Ông sinh ra ở quê ngoại[1] tại làng Đa Phước Hội, Quận Mỏ Cày, Tỉnh Bến Tre, miền Tây Nam phần Việt Nam, ông là người con thứ 5 trong tổng số 12 anh chị em. Do gia đình có điều kiện nên khi còn là học sinh Trung học ông được học ở những ngôi trường danh tiếng. Từ năm 1943 đến năm 1945, ông theo học ở trường Trung học Tabert, Sài Gòn. Năm 1946 đến năm 1949, trường Trung học Phan Thanh Giản, Cần Thơ và từ năm 1949 đến năm 1951 trường trung học Le Myre de Vilers, Mỹ Tho. Tốt nghiệp với văn bằng Tú tài toàn phần Pháp (Part II).[2]
Quân đội Quốc gia Việt Nam
Cuối năm 1951, thi hành lệnh động viên ông nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia, mang số quân: 50/119.246. Theo học khóa 6 Đinh Bộ Lĩnh tại trường Võ bị Liên Quân Đà Lạt, khai giảng ngày 1 tháng 12 năm 1951. Ngày 1 tháng 10 năm 1952 mãn khóa tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy hiện dịch.[3]. Ra trường, ông được chọn về Binh chủng Thiết giáp và tiếp tục theo học khóa căn bản Binh chủng tại Trung tâm Huấn luyện Thiết giáp Viễn Đông của Quân đội Pháp tại Vũng Tàu.
Tháng 4 năm 1953, sau khi mãn khóa căn bản ông được điều động về Đại đội 5 thuộc Tiểu đoàn Thám thính giữ chức vụ Trung đội trưởng Trung đội 4 kiêm Đại đội phó đồn trú tại Thái Bình, Bắc Việt do Trung úy Trần Văn Ái[4] làm Đại đội trưởng.
Tháng 6 năm 1954, ông chuyển sang làm Trung đội trưởng Chiến xa Obusier 75 ly kiêm Đại đội phó Đại đội 3 Thám thính tại Nam Định do Đại úy Nguyễn Duy Hinh làm Đại đội trưởng. Sau Hiệp định Genève (ngày 20 tháng 7), ông cùng đơn vị di chuyển vào Nam đồn trú tại Đà Nẵng. Ngày 1 tháng 10 cùng năm, ông được thăng cấp Trung úy tại nhiệm. Sau đó một tháng, ông được cử đi du học khóa cao cấp Thiết giáp Kỵ binh tại trường Saumur, Pháp đến trung tuần tháng 8 năm 1955 mãn khóa.
Quân đội Việt Nam Cộng hòa
Tháng 8 năm 1955, sau khi từ Quân đội Quốc gia chuyển sang phục vụ Quân đội Việt Nam Cộng hòa, ông được thăng cấp Đại úy và được cử làm Chi đoàn trưởng chi đoàn Thủy Xa Cua thuộc Liên đoàn 5 Thủy Xa tại Nhà Bè, Gia Định. Đến tháng 9 năm 1956, chuyển đi làm Trưởng ban 3 Trung đoàn 2 Thiết giáp tại Mỹ Tho. Giữa năm 1957, ông được chỉ định làm Trung đoàn phó Trung đoàn 4 Thiết giáp tại Huế. Giữa năm 1958, ông được cử đi du học khóa cao cấp Thiết giáp tại Trường Thiết giáp Lục quân Fort Knox, Tiểu bang Kentucky, Hoa Kỳ. Tháng 6 năm 1959, mãn khóa về nước ông được giữ chức vụ Chỉ huy phó trường Thiết giáp kiêm Giám đốc Huấn luyện tại Thủ Đức do Thiếu tá Nguyễn Phúc Vĩnh Lộc làm Chỉ huy trưởng. Kế tiếp, ông được cử đi học khóa 2 ở trường Chiến tranh Chính trị tại Sài Gòn.
Tháng 6 năm 1960, ông được thăng cấp Thiếu tá và được chỉ định làm Trung đoàn phó Trung đoàn 6 Thiết giáp tại Quảng Trị. Tháng 12 cùng năm, chuyển sang làm Trung đoàn phó Trung đoàn 3 Thiết giáp tại Pleiku.
Đầu tháng 2 năm 1964 sau cuộc Chỉnh lý nội bộ ngày 30 tháng 1 các tướng lãnh trong Hội đồng Quân nhân Cách mạng để lên nắm quyền lãnh đạo của tướng Nguyễn Khánh, ông được biệt phái sang đơn vị Bộ binh giữ chức vụ quyền Chỉ huy Trung đoàn 41 thuộc Sư đoàn 22 Bộ binh đóng tại Kontum do Thiếu tướng Linh Quang Viên làm Tư lệnh Sư đoàn. Tháng 7 cùng năm, chuyển về Bộ Tư lệnh Quân đoàn II tại Pleiku giữ chức vụ Trưởng phòng 3 Kế hoạch hành quân, Tư lệnh Quân đoàn là Thiếu tướng Nguyễn Hữu Có. Tháng 12 cùng năm, chuyển trở lại binh chủng cũ, ông được cử làm Chiến đoàn phó Chiến đoàn 5 Chiến xa tại Gò Vấp.
Tháng 8 năm 1965, ông được thăng cấp Trung tá giữ chức vụ Trung đoàn trưởng Trung đoàn 5 Thiết giáp tại Xuân Lộc, Long Khánh. Đến đầu năm 1967, được lệnh bàn giao chức vụ Trung đoàn trưởng Trung đoàn 5 lại cho Thiếu tá Phạm Đăng Chương.[5] Tháng 7 cùng năm, ông được cử đi làm Tham vụ báo chí ở Tòa Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Seoul, Nam Hàn do Trung tướng Đỗ Cao Trí làm Đại sứ. Tháng 8 năm 1968, về nước được chỉ định làm Chánh văn phòng Tư lệnh Quân đoàn III do Trung tướng Đỗ Cao Trí làm Tư lệnh.
Tháng 6 năm 1969, ông được thăng cấp Đại tá, một lần nữa biệt phái qua Bộ binh giữ chức Tư lệnh phó Sư đoàn 18 Bộ binh tại Xuân Lộc, Long Khánh do Chuẩn tướng Lâm Quang Thơ làm Tư lệnh Sư đoàn. Đầu năm 1970, ông được chỉ định làm Tư lệnh Lữ đoàn 3 Kỵ binh tại Biên Hòa. Tháng 8 năm 1972, ông được cử đi du học khóa Tham mưu cao cấp (khóa 1972 - 1973) thụ huấn 42 tuần tại Học viện Chỉ huy và Tham mưu Fort Leavenworth, Kansas, Hoa Kỳ[6], sau khi bàn giao Lữ đoàn 3 Thiết giáp lại cho Đại tá Nguyễn Kim Định[7]. Đến tháng 5 năm 1973, mãn khóa về nước ông nhận nhiệm vụ làm Trưởng khối Huấn luyện Chiến thuật tại trường Chỉ huy & Tham mưu ở Long Bình, Biên Hòa, Chỉ huy trưởng là Trung tướng Nguyễn Bảo Trị. Ngày 7 tháng 11 cùng năm, tái nhiệm chức vụ Tư lệnh Lữ đoàn 3 Kỵ binh tại Biên Hòa. Ngày 1 tháng 4 năm 1974, ông được thăng cấp Chuẩn tướng tại nhiệm.
Huy chương
- Huy chương Việt Nam Cộng hòa:
-Bảo quốc Huân chương đệ tam đẳng (ân thưởng)
-Hai mươi hai Anh dũng Bội tinh (9 nhành dương liễu, 4 sao vàng, 9 sao bạc)
-Chiến thương Bội tinh và một số huy chương quân sự, dân sự khác - Huy chương Ngoại quốc:
-Huy chương đồng Bronze Star (Hoa Kỳ)
-Huân chương Chung Nu (Đại Hàn).
Gia đình
- Thân phụ: Trần Quang Chiêu
- Thân mẫu: Lê Thị Hòa (Hai cụ sinh 12 người con (7 trai, 5 gái), tướng Khôi là thứ 5).
- Nhạc phụ: Lâm Đức Hương
- Nhạc mẫu: Trương Thị Sâm.
- Bào huynh: Trần Quang Bính, Trần Quang Cần, Trần Quang Hiển.
- Bào tỷ: Trần Thị Trầm
- Bào đệ: Trần Quang Nghĩa, Trần Quang Đồng, Trần Quang Tấn.
- Bào muội: Trần Thị Thân, Trần Hồng Liên, Trần Cẩm Vân, Trần Thị Trinh.
- Phu nhân: Lâm Tú Anh
- Ông bà có 4 người con (2 trai, 2 gái)
Trần Quang Phong, Trần Thanh Hương, Trần Thanh Xuân, Trần Quang Trung.
Chú thích
- ^ Quê nội của ông ở Rạch Giá, Kiên Giang
- ^ Sau này trong quân ngũ, ông ghi danh học Đại học, có thêm văn bằng Cử nhân Văn chương Pháp. Khi định cư ở Mỹ, ông vào Đại học George Mason University ở Tiểu bang Virginia, tốt nghiệp với văn bằng Đệ Tam cấp Tiến sĩ Văn học Pháp (Master of Arts Degree in French)
- ^ Tốt nghiệp khóa 6 Đinh Bộ Lĩnh về sau lên cấp tướng còn có:
-Chuẩn tướng Lý Tòng Bá, Chuẩn tướng Trần Đình Thọ và Phó Đề đốc Chuẩn tướng Diệp Quang Thủy - ^ Trung uý Trần Văn Ái về sau giải ngũ ở cấp Trung tá.
- ^ Thiếu tá Phạm Đăng Chương về sau giải ngũ ở cấp Trung tá.
- ^ Được cử đi học lớp Tham mưu cao cấp cùng với Đại tá Trần Quang Khôi còn có:
-Trung tá Hà Bá Chung (Tốt nghiệp khóa 10 Võ bị Đà Lạt, phục vụ trong đơn vị Bộ binh).
-Trung tá Vũ Bá Đạt (Tốt nghiệp khóa 5 Sĩ quan Thủ Đức, chức vụ sau cùng là Trưởng khối Kế hoạch tại Bộ Chỉ huy Pháo binh Trung ương).
-Trung tá Phạm Văn Hải (Sau cùng là Đại tá Giám đốc Nha Bình định và Phát triển thuộc Bộ Nội vụ).
-Trung tá Nguyễn Bá Mạnh Hùng (Tốt nghiệp khóa 10 Võ bị Đà Lạt, sau cùng là Đại tá Chỉ huy trưởng Trung đoàn 8 thuộc Sư đoàn 5 Bộ binh).
-Trung tá Trần In (Phục vụ trong đơn vị Bộ binh).
-Trung tá Đặng Đức Nhuận (Phục vụ trong đơn vị Bộ binh).
-Trung tá Nguyễn Cao Trường (Tốt nghiệp Sĩ quan Thủ Đức khóa 6, sau cùng là Đại tá Phó Phòng 1 Bộ Tổng Tham mưu)
-Trung tá Nguyễn Vỹ (Phục trong Binh chủng Nhảy dù, từng giữ chức vụ Tiểu đoàn trưởng). - ^ Đại tá Nguyễn Kim Định tốt nghiệp khóa 5 Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức
Tướng Khôi không phải là một YES MAN nên cuộc đời binh nghiệp của Tướng Khôi rất là lận đận. Trung úy đã có Đệ Tứ đẳng Bảo Quốc Huân Chương. Mang lon Đại úy 9 năm trời. Tướng Khôi thời còn làm Chiến đoàn trưởng chiến đoàn 4 TG đã bị Tướng Tôn Thất Đính và Tướng Lâm Văn Phát hai tướng gốc TG trù dập vì tính tự chủ và độc lập. Không chấp nhận cho xé lẻ TG ra. Tướng Khôi quan niệm phải là toàn khối thì mới phát huy hết sức mạnh của TG. Khi là chiến đoàn trưởng CD 5 TG, đã từng bị Đại Tá Battreall đề nghị Đại Tướng Westmoreland yêu cầu Đại Tướng Cao Văn Viên cách chức vì không nghe cố vấn Mỹ . Khi mất quyền chỉ huy CD5 TG, ngồi chơi xơi nước, năm 1967 xin đi học Tham Mưu Cao Cấp Lục Quân HK tại Leavenworth nhưng bị Hoa Kỳ từ chối. Tướng Khôi đã không được lòng cố vấn Mỹ. May mắn Trung Tướng Đỗ Cao Trí lúc ấy đã giải ngũ, được TT Thiệu cử làm Đại sứ VN tại Đại Hàn Dân Quốc. Tướng Trí đã đưa Trung Tá Khôi đi làm Tùy Viên Quân sự Toà Đại sứ VN tại Đại Hàn.
Năm 1968 Tướng Trí tái ngũ, được TT Thiệu cử làm Tư lệnh QDIII và QKIII , Đại Tá Khôi đã trở thành một cánh tay đắc lực của vị Tướng Tư lệnh Quân Đoàn can đảm và có tài thao lược từng được mệnh danh Patton Việt Nam. Tướng Khôi đảm nhiệm chức vụ Tư lệnh phó SD18BB. Với chức vụ nầy Đại tá Khôi đã tổ chức huấn luyện SD18BB. Ông đã từng đi theo cấp Tiểu đoàn để hướng dẫn huấn luyện các Tiểu đoàn trưởng và các Sĩ quan. Đã đưa ra chương trình tuyển mộ quân nhân tình nguyện có thưởng. Dần dần SD18BB đã khởi sắc. Đã từng tạo chiến tích huy hoàng khi chỉ huy Chiến Đoàn 318 xung kích trong các cuộc hành quân Toàn Thắng tại đất Miên. Khi Đại Tá Khôi sắp sửa thay thể Chuẩn Tướng Đổ Kế Giai trong chức vụ Tư lệnh SD18 BB, LD3KB được thành lập. Đại Tá Khôi đã rời SD18BB để trở về binh chủng TGB. Đã tổ chức, huấn luyện LD3KB và được sự chấp thuận của Tướng Trí, đã thành lập, tổ chức và huấn luyện Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III , một đơn vị trừ bị cho Quân đoàn III với đặc tính di động nhanh, hỏa lực mạnh mẽ, có thể có mặt nhanh chóng và có khả năng tham chiến độc lập trên các chiến trường trong phạm vi Quân Đoàn III với sức mạnh tương đương một sư đoàn. Đã tạo ra những chiến thắng thần tốc tại Dambe, Suong, Kreg, Chlong, Hố Bò, Khiêm Hanh, An Điền, Rạch Bắp… dưới sự chỉ huy và điều động của vị Tướng lừng danh QLVNCH, Đỗ Cao Trí, LD3KB/LLXKQDIII đã là thanh thượng phương bảo kiếm đã làm bạt vía quân thù trên khắp chiến trường QDIII.
Khi Tướng Trí đền xong nợ nước, Tướng Minh được PTT Trần Văn Hương đề cử làm Tư Lệnh QDIII và QKIII thay thế Tướng Trí. Dưới quyền chỉ huy của Tướng Minh, QDIII đã co cụm, đã phải rút quân về VN diện địa, các SDBV xâm lược an toàn đóng quân tại đất Miên, bổ sung quân số, tiếp liệu đầy đủ, đã tấn công Lộc Ninh chiếm Lộc Ninh chỉ trong hai ngày và uy hiếp An Lộc. Đại Tá Khôi không thể làm việc với một ông Tướng phe đảng, thiếu bản lảnh, thiếu kiến thức quân sự, không có cái uy cái dũng của một Tướng Lãnh cầm quân tại mặt trận. Chỉ ngồi trên trực thăng để chỉ huy mà không bao giờ đáp xuống mặt trận để gặp gở hội họp cùng các Chiến đoàn trưởng nhất là để nâng cao tinh thần ba quân tướng sĩ đang tham chiến. Đặc biệt Tướng Minh không biết điều động TG cho nên Đại Tá Khôi xin từ chức và xin đi học Tham Mưu Cao Cấp tại Hoa Kỳ vì không thể làm việc với một tướng lãnh chuyên nghề chạy chọt và phe đảng tham nhũng.
Khi Hiệp định Paris được ký kết, các khóa sinh người Mỹ cùng khóa Tham Mưu Cao Cấp Hoa Kỳ đã đề nghị giúp đở Đại Tá Khôi ở lại Mỹ vì chiến tranh VN đã chấm dứt. Đại Tá Khôi quyết định trở về nước. Ngày hai buổi đi dạy ở Trường Tham Mưu Cao Cấp (TMCC), sống đời công chức an nhàn dưới quyền chỉ huy của Trung Tướng Nguyễn Bảo Trị. Thời điểm nầy chiến trường sôi động nhưng bất lợi cho QLVNCH, vì những ràng buộc hạn chế về viện trợ và vũ khí theo tinh thần Hiệp định đình chiến Paris một đổi một, và dù cuộc sống an nhàn tiện nghi có nhiều thì giờ gần gũi cùng gia đình nhưng trách nhiệm của một người lính, đã thôi thúc Đại Tá Khôi phải trở lại chiến trường.
Được sự chấp thuận của Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh QDI/QKI, Đại Tá Khôi được Tướng NB Trị, Chi Huy Trưởng Trường TMCC đồng ý cho Đại Tá Khôi ra làm Tư Lệnh LD1KB trấn đóng vùng hỏa tuyến. Nhưng cùng lúc Trung Tướng Phạm Quốc Thuần được TT Thiệu đề cử làm Tư Lệnh QDIII/QKIII thay thế Tướng Nguyễn Văn Minh, đã xin TT Thiệu can thiệp cho Đại Tá Khôi trở về chỉ huy LD3KB. Giữa LD1KB và LD3KB, Đại Tá Khôi đã chọn LD3KB, đó là đứa con, là tâm huyết của Đại Tá Khôi. Đại Tá Khôi đã làm sống lại LD3KB và xin Trung Tướng Thuần cho thành lập lại LLXKQDIII. Từ đó LD3KB / LLXKQD III tái xuất giang hồ, đã làm khiếp đảm quân thù. Điển hình là trận giải tỏa căn cứ Biên Phòng Đức Huệ. Khi SD25 BB đã thất bại trong nỗ lực giải tỏa căn cứ thì Tướng Khôi được Tướng Thuần trao nhiệm vụ thảo kế hoạch giải tỏa căn cứ Đức Huệ, nơi đó hơn 400 chiến sĩ BDQ Biên Phòng và gia đình đã tử thủ gần tháng trời không được tiếp tế, tản thương vì phòng không quá mạnh. Tướng Khôi lập kế hoạch phải vượt biên qua Miên và tấn công phía sau Sư Đoàn 5 CSBVXL. Vì sự tế nhị ngoai giao, Tướng Thuần bác kế hoạch nầy và yêu cầu Tướng Khôi làm kế hoạch khác. Tướng Khôi đã nài nĩ, đã thuyết phục Tướng Thuần chấp thuận vì không có một kế hoạch nào khác khả dĩ. Tướng Khôi trình với Tướng Thuần “Chúng ta không thể yên lặng bất động để hơn 400 chiến sĩ và gia đình bị cộng quân tiêu diệt mà không có một phản ứng thích hợp và cần thiết nào”. Cuối cùng kế hoạch được chuyển lên TT Thiệu và được chấp thuận. Chỉ trong một ngày Tướng Khôi và LD3KB / LLXKQDIII đã đánh tan SD5 CSBVXL tịch thu rất nhiều vũ khí và hỏa tiễn. Một kế hoạch đã làm TT Thiệu thích thú. Một chiến công đã làm kinh động tất cả các giới chức, các tùy viên quân sự trên thế giới. Đã được các giới chức cao cấp Hoa Kỳ khen ngợi. Đặc biệt Đại Tá Battreal, người có công tổ chức, thành lập , yểm trợ cho Thiết Giáp Binh đã nhận định đây là chiến thắng oanh liệt nhất trong Chiến Tranh Việt Nam và xếp hạng Tướng Khôi là một trong 4 Tướng Lãnh Kỵ binh xuất sắc nhất thế giới trong thế kỷ 20: George Patton, Erwin Rommel, Creighton Abrams, Trần Quang Khôi
Ngày tàn cuộc chiến. Khi gia đình đã được di tản theo lời yêu cầu của Tướng Khôi. Tướng Khôi đã quyết định ở lại, đã kêu gọi tinh thần yêu nước, danh dự và trách nhiệm của người chiến binh QLVNCH chiến đấu đến cùng. LD3KB / LLXKQDIII và các đơn vị tăng phái như LD468 TQLC và LD2ND là lực lượng cuối cùng của QDIII / QKIII còn tại hàng chiến đấu. Đã đánh tan một Trung Đoàn VC có chiến xa T54 tại căn cứ Nước Trong, Trường Thiết Giáp Long Thành, gây thiệt hại nặng nề cho SD341 BVXL tại Biên Hoà và sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975 đang kéo quân về để bảo vệ SG thì được lệnh đầu hàng vô điều kiện. Tại thời điểm đó, Tướng Khôi đang có hai trực thăng C&C tại trại Phù Đổng ông đã từ chối lời đề nghị của Thiếu Tá Cư, phi công trực thăng, tình nguyện đưa Tướng Khôi di tản ra Hàng Không Mẫu Hạm Mỹ. Ra đi lúc đó không ai dè biểu hay dị nghị vì Tướng Khôi đã làm xong nhiệm vụ của một Tướng Lãnh, đang cầm quân tại mặt trận không bỏ đơn vị, không bỏ chiến sĩ, để đào thoát. Đã chấp nhận ở lại cùng ba quân để giử lời cam kết cùng sống chết với các chiến sĩ cũng như danh tướng Đổ Cao Trí đã cùng sống cùng chết và cùng nằm chung với các chiến sĩ tại Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hoà như lời cam kết ngày nào tại chiến trường Cambodia.
Tướng Khôi với tinh thần và danh dự của người chiến sĩ Kỵ Binh, đã được các chiến sĩ BDQ, Thiết Giáp, Nhảy Dù, TQLC, Pháo Binh, Truyền tin, Tiếp vận.. tin tưởng và ngưỡng mộ. Những tinh thần đó không thể một ngày một tháng mà có được. Tại sao các chiến sĩ LD3KB/LLXKQDIII cùng các đơn vị tăng phái ND, TQLC đã chấp nhận ở lại không tan hàng tháo chạy, vững tay súng cho đến giờ phút cuối cùng ? Chắc chắn các chiến sĩ đó đã thấy được, trong quá khứ, đã tin tưởng phẩm chất cao đẹp của một Tướng Lãnh cầm quân, nguyện chiến đấu và hiến thân dưới cờ vàng. Một vị Tướng đã ở lại để cùng chia gian khổ nhục nhằn kiếp tù binh thất trận mất nước 17 năm ròng rả. Tại sao VC phải bắt ngay Tướng Khôi tại nhà ngay khi vừa bước đôi dép râu vào Saigon ? Chắc chắc bọn VC đã hiểu được Tướng Khôi là một người rất nguy hiểm cho chúng nó. Một Tướng Lãnh có uy tín vừa quyết liệt vừa có tư cách và tài thao lược của một Tướng Lãnh được các chiến sĩ tuyệt đối tin tưởng và nghe theo. Nếu Tướng Khôi chỉ là một người thiếu trách nhiệm không có tinh thần đồng đội. Một người khi nhận nhiệm vụ đi tiếp cứu quân bạn mà Lần Mò, Lấp Ló, Ngủ Qua Đêm thì ngay sau khi về nước làm sao Danh tướng Ngô Quang Trưởng và Trung Tướng Phạm Quốc Thuần tin cậy và tín nhiệm trao nhiệm vụ chỉ huy LDKB. Chỉ vài tháng sau khi về nước, TT Thiệu đã gắn sao cho Đại Tá Khôi. Trong 4 Đại Tá được đề cử lên Chuẩn Tướng, Đại Tá Khôi đảm nhiệm chức vụ thấp nhất là Tư Lệnh Lữ Đoàn 3 KB. Trong khi các Đại Tá khác là Đại Tá Nguyễn Hữu Toán, Tư Lệnh SD25BB, Đại Tá Lê Nguyên Vỹ, Tư Lệnh SD5BB và Đại Tá Ngô Văn Minh, Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn (thang 1, năm 1974). TT Thiệu đã chỉ chọn Đại Tá Khôi, người có chức vụ thấp nhất trong 4 Sĩ Quan được đề cử. Khi được hỏi tại sao TT Thiệu lại chọn Đại Tá Khôi chỉ là Tư Lệnh Lữ Đoàn, TT Thiệu đã trả lời đúng ra Khôi lên Tướng từ thời Trung Tướng Đổ Cao Trí làm Tư Lệnh QDIII. Nhưng vì Khôi còn quá trẻ nên bây giờ mới lên Tướng. Chỉ vài tháng sau, Tướng Khôi đã chứng minh quyết định TT Thiệu là đúng khi ông đã thể hiện được tài thao lược tinh thần quyết chiến quyết thắng nhất là tình huynh đệ chi binh trong trận đánh giải tỏa căn cứ Biên Phòng Đức Huệ. Những ngày cuối cùng của cuộc chiến LD3KB/LLXKQDIII đã trấn đóng Ngã Ba Dầu Giây – Hưng Lộc, chặn đứng Quân Đoàn 4VC. Đã tiếp cứu Chiến Đoàn 52 /SD18BB không bị tràn ngập. Đã giữ vững Biên Hoà trong ngày cuối cùng của cuộc chiến. Chỉ buông súng tan hàng khi vị Tổng Tư Lệnh ra lệnh ngày 30 tháng tư năm 1975 lúc 10 giờ sáng.
Với một tư cách như thế, với một phẩm chất như thế Tướng Khôi đã trở thành biểu tượng hào hùng bất khuất của một kỵ binh đã cống hiến cả đời trai trẻ cho Tổ Quốc, cho Quân Đội. Chưa bao giờ lùi bước trước kẻ thù. Đã chiến đấu đến giờ phút cuối cùng của cuộc chiến. Đã ở lại để cùng chia xẻ với các chiến sĩ đủ mọi binh chủng, những nghẹn ngào cay đắng tủi nhục của một người lính bại trận. Đã ở 17 năm trong ngục tù Cộng sản vẫn giữ phẩm chất và tinh thần cao đẹp của người chiến sĩ QLVNCH.
Bằng câu tuyên bố : ” Nếu phải làm lại từ đầu, tôi (Tướng Khôi) vẫn làm như thế. Dù biết rằng tôi sẽ mất tất cả trừ DANH DỰ”.
KB NguySaigon (Trích Từ Bài Viết : Snoul , Tưởng Rằng Đã Xong , đăng trong Đặc San Thiết Giáp 2015)
Với tư cách cố vấn trưởng cho Tư Lệnh Thiết Giáp QLVNCH, tôi gặp Tướng Khôi lần đầu tiên vào năm 1966 khi ông dàn Thiết Kỵ 5 QLVNCH tại Xuân Lộc. Tôi theo chân ông trong nhiều cuộc hành quân để thăm dò chuẩn bị cho sự tham chiến của Trung Đoàn Thiết Kỵ 11 QLHK.
Tháng 5 năm 1966, Tướng Khôi cung cấp Thiết Đoàn 1/5 (M41A3) để được không vận ra Đà Nẵng ("When Tanks Took Wings," ARMOR, May-June 1994)
Vào đầu năm 1970, Chiến Đoàn 318 cuả Tướng Khôi đi tiên phong trong cuộc hành quân hỗn hợp Mỹ/Việt vượt biên vào lãnh thổ Cam Bốt, khiến cho Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn 3 của ông được mệnh danh "Patton của Vùng Mỏ Vẹt."
Tháng 11 năm 1970, Tướng Khôi tổ chức và huấn luyện Lữ Đoàn Thiết Giáp Quân Đoàn 3 và chỉ huy Lữ Đoàn này tại Cam Bốt, trước cũng như sau thời gian theo học US Army Command & General Staff College tại Fort Leavenworth năm 1972-73.
Năm 1971-72, tôi thường gặp Tướng Khôi tại nhiều nơi tỉ như An Lộc và Lộc Ninh, trong những lúc Lữ Đoàn của ông đánh đông dẹp tây tại những mặt trận sôi bỏng trên lãnh thổ Cam Bốt.
Sau khi được phóng thích khỏi trại tù cải tạo sau 17 năm, Tướng Khôi hiện cư ngụ tại Springfield, VA.
Tướng Khôi là một trong số những vị lãnh đạo Thiết Giáp cừ khôi nhất tôi được quen biết: táo bạo và xông xáo, nhưng không húc bậy, biết dùng di động tính và hỏa lực đề tạo chấn động gây khiếp đảm ngay cả trên chiến trường Việt Nam. Tướng Khôi đồng thời cũng biết chế biến và uyển chuyển để tận dụng những lợi khí có trong tầm tay. Nếu Tướng Khôi là chỉ huy trưởng của một chi đoàn thiết giáp thuộc Third Army trong Đệ Nhị Thế Chiến, thì hẳn là Tướng Patton đã phải nhìn nhận hai chiến binh đồng hạng: Creighton Abrams và Trần Quang Khôi.
Raymond R. Battreall
Đại Tá, Thiết Giáp (Hưu Trí)
(Armor, March-April 1996)
Ghi chú: Cháu vừa đọc một số thông tin về ông cháu, Trần Quang Khôi. Ông cháu hiện giờ sống tại South Riding, và không còn ở Springfield đã nhiều năm qua. Đó chỉ là một tiểu tiết trong trường hợp ông muốn cập nhật thông tin trên trang nhà của ông... Cháu xin cám ơn ông về thì giờ của ông. (Trần Quang Phú, 31/08/2008)
Các Tướng Lãnh QLVNCH
Tướng Hiếu, Một Thiên Tài Quân Sự?
Các Tướng Lãnh QLVNCH
generalhieu