Nhạc
sĩ Nguyễn Văn Đông có quê quán Bến Cầu, Tây Ninh, một nhân tài âm nhạc
đã vĩnh viễn ra đi, những văn nghệ sĩ chúng tôi xin thành kinh phân ưu
cùng tang quyến về sự mất mát lớn lao cùa Nhạc sĩ. Nguyện cầu hương linh
cùa ông sớm về cõi ngàn thu an bình. Nguyễn Văn Sâm, Lê Bình,
Hà Nguyên Du, Nguyễn Lý Sáng, Phan Tấn Ngưu, Nguyễn Quang (mđht), Trần
Mạnh Chi, Phạm Hồng Thái, Phạm Quốc Bảo, Ngọc Cường, Phạm Kim, Trần Quốc
Bảo, Ông Như Ngọc, Lam Phương, Bích Huyền, Hồng Vũ Lan Nhi, Cao Mỵ
Nhân, Cung Trầm Tưởng, Kim Liên, Lê Văn Khoa, Ngọc Hà, Nguyễn Bá Thảo,
Bồ Đại Kỳ, Phạm Đăng Khải, Mỹ Dung, Ngọc Quỳnh, Trịnh Nam Sơn, Diễm Chi,
Hoài Niệm, Kim Tuyến, Dương Viết Điền, Trần Quảng Nam, Dương Như
Nguyện, Lê Tuấn, Hoàng Vinh, Dương Ngọc Sum, An Nguyễn Kiều Mỹ Duyên,
Mindy Lưu Anh Tuấn, ThụyVy, Thúy Vinh, Quyên Di, Nguyễn Hữu Thời, Thanh
Thanh, Thanh Thúy, Thanh Mỹ, Thanh Châu, Vanessa Hồng Vân, Trọng Nghĩa,
Kim Tước, Hồng Tước, Thanh Tước, Karen Trịnh Thanh Thủy, Nguyễn Thanh
Thủy Houston, Phan Anh Dũng, Trần Quang Hải, Lê Dinh, Ái Cầm Thái Tú
Hạp, Gina Nga Nguyễn, Như Hảo, Loanne Ngọc Loan, Lucie Thanh Vân, Vân
Khanh, Đào Đức Nhuận, Nhật Uyên, Lệ Hoa, Annie Trần Dallas, Ngô Thụy
Miên, Olivia Mai Tú Trâm, Phong Lê Mai, Lê Hân, Phan Ni Tấn, Trường Sa,
Võ Tá Hân, Vương Trùng Dương, Phan Tấn Đạt, Chu Bá Yến, Trương Duy
Cường, Hồng Thủy Bùi Cửu Viên, Lê Mộng Nguyên, Phạm Mạnh Đạt, Nguyễn
Minh Vũ Minh Phương Vân Bằng Nguyễn Trọng Nho, Yên Sơn, Cát Biển, Nhược
Thu, Khiếu Long, Phan Đình Minh, Dân Kim Lâm, Tania Thái Hà, Châu Thái
Loan, Topaz Trần, Túy Vân MS, Vy Lan, Du Tử Lê, Lê Hữu, Ngô Thiện Đức,
Mão Đặng, Phạm Ngọc Tú, Phạm Hòa cùng Việt Hải. Đồng Thành Kính Phân Ưu. ---------------------------------------------------- Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, tác giả ‘Chiều Mưa Biên Giới’, qua đời, (February 26, 2018).
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông (trái) cùng vợ và nhạc sĩ Trần Quốc Bảo chụp
trước cửa tiệm Nhiên Hương năm 1996 (Hình: nhạc sĩ Trần Quốc Bảo cung
cấp) Ngọc Lan/Người Việt WESTMINSTER, California (NV) – Nhạc
sĩ Nguyễn Văn Đông, tác giả tình khúc nổi tiếng “Chiều Mưa Biên Giới”,
vừa qua đời lúc 4 giờ 30 sáng Thứ Hai, ngày 26 Tháng Hai (tức 7 giờ 30
tối 26 Tháng Hai theo giờ Việt Nam) tại Bệnh viện Chợ Rẫy, Sài Gòn,
hưởng thọ 85 tuổi. Nhạc sĩ Trần Quốc Bảo, chủ nhiệm đặc san Thế Giới Nghệ Sĩ, xác nhận tin trên với phóng viên Người Việt.
“Tôi nhận được tin do ca sĩ Giao Linh từ Sài Gòn gọi sang cho hay. Giao
Linh là học trò rất thân với thầy Nguyễn Văn Đông. Chị Giao Linh vào
bệnh viện thăm thầy buổi trưa, vừa về vài tiếng thì nghe người nhà của
thầy gọi cho biết là thầy qua đời,” nhạc sĩ Trần Quốc Bảo cho biết.
Cũng theo lời nhạc sĩ Trần Quốc Bảo, “Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông được đưa
vào bệnh viện một vài ngày trước do khó thở, và vì những bệnh già chứ
không phải bệnh tật gì nặng hết. Thế nên việc ông ra đi đột ngột khiến
ai cũng bàng hoàng. Bản thân tôi cũng cảm thấy buồn quá!” Theo
Wikipedia, nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông sinh ngày 15 Tháng Ba, 1932 tại Sài
Gòn, trong một gia đình nguyên là một điền chủ lớn có nhiều ruộng đất ở
Tây Ninh Ông nguyên là một sĩ quan Bộ binh cao cấp của Quân lực
Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc cuối cùng là đại tá. Ông xuất thân từ
trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tầu và sau đó là trường Võ Bị Quốc Gia
do Chính phủ Quốc gia mở ra tại miền Nam Việt Nam vào cuối thập niên 40
của thế kỷ trước. Năm 1954, ông được gửi ra Hà Nội theo học khóa
“Tiểu đoàn trưởng” tại Trung tâm Chiến thuật Hà Nội. Ông từng giữ chức
vụ Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Trọng pháo 553 và là Tiểu đoàn trưởng trẻ
nhất của Quân đội Quốc gia khi mới 22 tuổi. Cuối năm 1957, ông được cử đi du học khóa Chỉ huy tham mưu tại tiểu bang Hawaii, Hoa Kỳ.
Tháng 11, 1972, ông được thăng cấp Đại tá chuyển sang làm Chánh Văn
phòng cho Tổng Tham mưu Phó. Ông đã ở chức vụ này cho đến cuối Tháng 4
năm 1975. Ông bị bắt đi tù cải tạo 10 năm. Kể từ đó ông đã ngừng
sáng tác nhạc. Ông không xin đi xuất cảnh theo diện H.O, mà ở lại Sài
Gòn sống cùng vợ tại quận Phú Nhuận. Trong thời gian ở trường
Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu, ông được học nhạc với các giảng viên âm nhạc
của Học viện Âm nhạc Quốc gia Pháp sang giảng dạy. Năm 16 tuổi, ông đã
có những sáng tác đầu tay như “Thiếu sinh quân hành khúc”, “Tạm biệt mùa
hè”… Trong thập niên 1950, ông nổi tiếng khi là Trưởng Đoàn Văn
Nghệ Vì Dân với thành phần ca nhạc sĩ tên tuổi như Mạnh Phát, Minh Kỳ,
Hoài Linh, Thu Hồ, Quách Đàm, Minh Diệu, Khánh Ngọc và các nghệ sĩ sân
khấu danh tiếng như Kim Cương, Vân Hùng, Ba Vân, Bảy Xê, Trần Văn
Trạch, diễn viên điện ảnh Trang Thiên Kim… Từ năm 1958, ông là
Trưởng ban Ca nhạc Tiếng thời gian của Đài Phát thanh Sài Gòn, gồm những
danh ca, nhạc sĩ danh tiếng như Lệ Thanh, Hà Thanh, Minh Diệu, Khánh
Ngọc, Mạnh Phát, Thu Hồ, Quách Đàm, Anh Ngọc… Ông còn là Giám đốc
hãng băng đĩa nhạc Continental và Sơn Ca, cộng tác với những nhạc sĩ
tên tuổi như Lê Văn Thiện, Văn Phụng, Nghiêm Phú Phi, Y Vân… Vợ
chồng nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông (ngồi) chụp tại tư gia của ông năm 2014
cùng các ca sĩ Giao Linh, Phương Hồng Quế, Trang Thanh Lan, Phương Hồng
Ngọc, Kim Anh , Michael, nhạc sĩ Trần Quốc Bảo (Hình: nhạc sĩ Trần Quốc
Bảo cung cấp) Nhiều sáng tác của ông viết về chủ đề người lính Việt
Nam Cộng Hòa thời đó, như nhạc phẩm “Phiên gác đêm xuân” được ông
viết vào đêm Ba Mươi Tết năm 1956 khi gác phiên ở khu 9 Đồng Tháp Mười,
“Chiều mưa biên giới” ra đời năm 1956 và nổi tiếng qua tiếng hát của
Trần Văn Trạch… Ông còn có nhiều bút danh khác như Phượng Linh,
Phương Hà trên một số nhạc phẩm tình cảm như “Khi đã yêu”, “Thầm kín”,
“Niềm đau dĩ vãng”, “Nhớ một chiều xuân”… Với bút danh Đông
Phương Tử và Phượng Linh, ông đã viết nhạc nền và đạo diễn cho trên 50
vở tuồng, cải lương nổi tiếng ở Miền Nam trước năm 1975 như Nửa đời
hương phấn, Đoạn tuyệt, Tiếng hạc trong trăng, Mưa rừng… Về gia
đình riêng của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, theo nhạc sĩ Trần Quốc Bảo thì
“Hầu như những người thân đều biết cô Nguyệt Thu là vợ của thầy Đông.
Hai thầy cô lấy nhau từ khi nào thì không rõ nhưng chắc chắn một điều
là sau khi thầy ra khỏi tù cải tạo năm 1985, cô Thu một tay quán xuyến
một cửa hàng bán bánh mì, giò chả tên Nhiên Hương tại nhà đường Nguyễn
Trọng Tuyển, Phú Nhuận, và lo lắng chăm sóc cho thầy không rời nửa
bước.” “Với thầy Đông, tôi chỉ biết nói rằng tôi kính phục ông
nhất hai điểm, đó là tài hoa và tư cách,” nhạc sĩ Trần Quốc Bảo cảm
nhận. Chủ nhiệm đặc san Thế Giới Nghệ Sĩ nói thêm, “Được biết, do
không có con cháu, nên trong cáo phó của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông có ghi
‘không nhận vòng hoa, phúng điếu’ vì sợ sau này không có người trả lễ.”
(Ngọc Lan) Đại Tá QLVNCH- Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông sinh ngày 15 tháng 3 năm 1932 tại quận Nhất,
Sài Gòn. Nguyên quán ông bà, cha mẹ ông ở huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh.
Thuở nhỏ ông theo học trường Huỳnh Khương Ninh ở Đa Kao. Khi đất nước
gặp phải những biến động lớn lao vào năm 1945, gia đình ông bị liệt vào
thành phần địa chủ, cường hào nên lâm vào cảnh khuynh gia bại sản, gia
đình ly tán. Do đo, tuổi thơ của ông là người con duy nhất trong gia
đình cũng bị vùi dập để cuốn theo thời cuộc lúc bấy giờ. Trước
khi theo học trung học ở trường Huỳnh Khương Ninh, nhờ gia đình khá giả
nên ông đã được cho học ở nhà với thầy giáo riêng. Cho nên tuổi thơ của
ông đến trường thì ít mà học ở nhà thì nhiều. Sau khi trường
trung học mà nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông theo học là Hùynh Khương Ninh đóng
cửa, ông tự ý xin gia nhập trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam. Đây là
trường võ bị đầu tiên và lâu đời nhất của Việt Nam. Đó cũng là nơi đào
tạo nhiều vị tướng lãnh tài ba của Quân Đội VNCH. Nhạc sĩ Nguyễn Văn
Đông đã trải qua 5 năm ăn học ở ngôi trường này. Và chính tại đó ông đã
được học nhạc và văn hóa với những giáo sư người Pháp có thực tài. Đó là
những giảng viên của Viện Âm Nhạc quốc gia Pháp được cử về trường Thiếu
Sinh Quân giảng dạy. Chính vậy mà nền văn hóa Tây Phương đã ảnh hưởng
đến ông rất nhiều. Sau khi ra trường Thiếu Sinh Quân, ông gia
nhập trường Võ Bị Sĩ Quan Vũng Tầu và tốt nghiệp năm 1952 với cấp bậc
thiếu úy. Kế đó ông nắm chức vụ trung đội trưởng tại trường Võ Bị Đà Lạt
và tốt nghiệp năm 1953. Qua năm 1954, ông về trường Chiến Thuật tại Hà
Nội để giữ chức vụ tiểu đoàn trưởng. Trong hai năm 1955 và 1956, ông
phục vụ tại Phân Khu Đồng Tháp Mười trong chức vụ trung úy Trưởng Phòng
Hành Quân. Cũng trong thời gian này, ông kiêm nhiệm thêm chức vụ
Trưởng Phòng 3 của Chiến Khu Đồng Tháp Mười do đại tá Nguyễn Văn Là làm
chỉ huy trưởng, tham gia chiến dịch Thoại Ngọc Hầu do thiếu tướng Dương
Văn Minh chỉ huy. Ông không sao quên được một kỷ niệm có lần tướng Minh
đã đến bắt tay ông để tỏ lòng ngưỡng mộ tác giả của những ca khúc về đời
lính chiến ngay tại mặt trận Chiến Khu Đồng Tháp. Và hình ảnh cái bắt
tay này đã được in trên trang nhấr của báo Chiến Sĩ Cộng Hoà. Đến
năm 1957, ông theo học khóa Chỉ Huy Và Tham Mưu tại Hawaii. Và cũng
trong thời gian này ông cho ra đời nhạc phẩm “Nhớ Một Chiều Xuân”.
Cũng qua cuộc nói chuyện với người viết, nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông cho
biết ông chọn binh nghiệp là nghề nghiệp chính. Mặc dù ông được học nhạc
chính quy ở trường, nhưng âm nhạc chỉ là nghề tay trái. Từ cấp
bậc thiếu úy, nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông bước dần lên cấp bậc đại tá. Ông
từng được nhận huy chương cao quí nhất của Việt Nam Cộng Hòa là Bảo Quốc
Huân Chưong vào giữa thập niên 60. Sau biến cố tháng 4 năm 75, nhạc sĩ
Nguyễn Văn Đông đã kết thúc cuộc đời binh nghiệp của mình trong tăm tối
bằng 10 năm tù cải tạo. Đúng như ông đã dự đoán cuộc đời thăng trầm của
mình bằng 2 câu kết của nhạc phẩm “Chiều Mưa Biên Giới: “Lòng trần còn
tơ vương khanh tướng thì đường trần còn mưa bay gió cuốn còn nhiều anh
ơi”. Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông cũng nhấn mạnh thêm là chưa bao giờ
ông phục vụ ở Cục Chiến Tranh Chính Trị như nhiều người lầm tưởng. Ông
chỉ đích thực là một người lính tác chiến, rồi sau đó trở thành sĩ quan
tham mưu cao cấp của Bộ Tổng Tham Mưu Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa. Sau
năm 75, đầu tiên nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông bị đưa đi tù cs. tại trại Suối
Máu. Nhưng không lâu sau, ông bị chuyển về nhà tù Chí Hòa cho đến khi
được trả tự do vào năm 1985. Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông cho biết ông đã rất
đau buồn vì không được nhìn thấy mặt thân phụ lần cuối trong thời gian
ông ở tù cải tạo. Trong khi đó thân mẫu ông đã qua đời trước đó vào năm
1971. Sau khi được trả tự do vào năm 1985, sức khỏe của nhạc sĩ
Nguyễn Văn Đông không được mấy khả quan đến từ nhiều căn bệnh như đau
bao tử, thấp khớp và nhất là cao huyết áp nên đã không còn cảm thấy hứng
thú trong việc sáng tác ngoài một số bài viết trong khoảng hơn 30 năm
nay. (Nguồn giadinhhoangtrong) Nhạc Sĩ Nguyễn Văn Đông, Đại tá QLVNCH:http://nhacvang-nguyen.blogspot.com/…/nhac-si-nguyen-van-on… Nhạc Nguyễn Văn Đông qua tiếng hát Hà Thanh:https://102phim.com/…/nhac-nguyen-van-dong-qua-tieng-hat-ha… Nhạc Sĩ Nguyễn Văn Đông - Các Bài Hát Chọn Lọc Hay Nhất Thu Âm Trước 1975:https://102phim.com/…/nhac-si-nguyen-van-dong-cac-bai-hat-c… NHỮNG CA KHÚC HAY NHẤT CỦA NGUYỄN VĂN ĐÔNG [20 Ca Khúc] -TNP:https://102phim.com/…/nhung-ca-khuc-hay-nhat-cua-nguyen-van… Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, tác giả ‘Chiều Mưa Biên Giới’, qua đời:https://www.nguoi-viet.com/…/nhac-si-nguyen-van-dong-tac-g…/ Nguyễn Văn Đông: Giữa binh nghiệp và âm nhạc, Trường Kỳ:https://giadinhhoangtrong.wordpress.com/…/nguyen-van-dong-…/ Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, Tuan's Blog:http://tuanvannguyen.blogspot.com/…/nhac-si-nguyen-van-ong.… Mùa xuân trong nhạc của Nguyễn Văn Đông, Cát Linh, phóng viên RFA:https://www.rfa.org/…/Soul-of-spring-in-Nguyen-Van-Dong-mus… Tuyển tập “Thánh Ca Giáng Sinh” của Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông:https://dotchuoinon.com/…/thanh-ca-giang-sinh-tuyen-tap-ng…/ Người lính trong nhạc Nguyễn Văn Ðông, bài Lê Hữu:http://amnhac.fm/…/5250-nguoi-linh-trong-nhac-nguyen-van-do… Binh nghiệp và Nhạc nghiệp của Nguyễn Văn Đông, bài Du Tử Lê:https://dongsongcu.wordpress.com/…/binh-nghiep-va-nhac-ngh…/ FB Trần Việt Hải
- Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông vừa trút hơi thở cuối cùng lúc 19g30 ngày thứ hai 26 tháng 2 tại Bịnh viện Chợ Rẫy.
- NGUYỄN VĂN ĐÔNG (sinh 1932), là một nhạc sĩ, quân nhân Việt Nam Cộng
hòa nổi tiếng trước 1975. Một số bút danh khác của ông là Phượng Linh,
Phương Hà, Vì Dân và Đông Phương Tử. - Cuộc đời binh nghiệp : -
Nguyễn Văn Đông sinh ngày 15 tháng 3 năm 1932 tại quận 1, Sài Gòn nhưng
nguyên quán của ông ở Lợi Thuận, Bến Cầu, Tây Ninh. Thuở bé, do điều
kiện gia đình, ông học ở nhà dưới sự hướng dẫn của thầy học. Sau ông
theo học bậc trung học tại trường Huỳnh Khương Ninh, Đa Kao. - Năm
1945, chính quyền Pháp đóng cửa trường Huỳnh Khương Ninh. Năm 1946, gia
đình gửi ông vào trường Thiếu sinh quân Việt Nam ở Vũng Tàu, khi đấy ông
mới 14 tuổi. - Thời gian tại trường Thiếu sinh quân Vũng Tàu, ông
được học nhạc với các giảng viên âm nhạc của Học viện Âm nhạc Quốc gia
Pháp sang giảng dạy. Chỉ sau một thời gian ngắn sau, ông trở thành một
thành viên của ban quân nhạc thiếu sinh quân, học cách sử dụng nhiều
loại nhạc cụ khác nhau. Năm 16 tuổi, ông đã có những sáng tác đầu tay
như “Thiếu sinh quân hành khúc”, “Tạm biệt mùa hè”… - Sau khi tốt
nghiệp trường Thiếu sinh quân Vũng Tàu, ông nhập ngũ chính thức vào Quân
đội Quốc gia Việt Nam. Năm 1951, ông được cử theo học khóa 4 trường Võ
bị Sĩ quan Vũng Tàu và tốt nghiệp thủ khoa với cấp bậc Thiếu úy vào năm
1952. Năm sau, ông được cử đi học khóa huấn luyện “Ðại đội trưởng” tại
trường Võ bị Ðà Lạt. Năm 1954, ông được gửi ra Hà Nội theo học khóa
“Tiểu đoàn trưởng” tại trường chiến thuật Hà Nội. Ra trường, ông nhận
chức vụ Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn trọng pháo 553, trở thành Tiểu đoàn
trưởng trẻ nhất của Quân đội Quốc gia Việt Nam khi mới 24 tuổi. -
Sau Hiệp định Genève, 1954, ông chuyển vào Nam, phục vụ tại Phân khu
Đồng Tháp Mười với chức vụ Trung úy Trưởng phòng Hành quân. Thời gian
này, ông còn kiêm nhiệm chức Trưởng phòng 3 (Tác chiến) của Phân khu,
dưới quyền Đại tá Nguyễn Văn Là, tham gia Chiến dịch Thoại Ngọc Hầu
1956. Bấy giờ, tướng Dương Văn Minh là Tư lệnh chiến dịch, từng đến bắt
tay ông tỏ lòng ngưỡng mộ. Bức ảnh chụp tướng Minh bắt tay ông đã được
in trên trang nhất của báo Chiến sĩ Cộng hòa. Ông thăng đến chức đại
tátrong Quân lực Việt Nam Cộng hòa. - Sau sự kiện 30 tháng 4, 1975,
Nguyễn Văn Đông bị bắt đi học tập cải tạo 10 năm và ngừng sáng tác từ
đó. Hiện ông sống tại Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh cùng gia đình. - Hoạt động trong lĩnh vực âm nhạc
- Nguyễn Văn Đông từng nhiều năm hoạt động trong lĩnh vực âm nhạc ở
Sài Gòn trước 30 tháng 4 năm 1975. Trong thập niên 1950, Nguyễn Văn Đông
nổi tiếng khi là Truởng Đoàn văn nghệ Vì Dân với thành phần ca nhạc sĩ
tên tuổi như Mạnh Phát, Minh Kỳ, Hoài Linh, Thu Hồ, Quách Đàm, Minh
Diệu, Khánh Ngọc và các nghệ sĩ danh tiếng như Kim Cương, Vân Hùng, Ba
Vân, Bảy Xê, Trần Văn Trạch, diễn viên điện ảnh Trang Thiên Kim… Ông đã
tổ chức và điều khiển các chương trình đại nhạc hội tại Sài Gòn và khắp
các tỉnh của Việt Nam Cộng hòa. - Từ năm 1958, Nguyễn Văn Đông là
trưởng ban ca nhạc Tiếng Thời Gian của Đài Phát thanh Sài Gòn, gồm những
danh ca, nhạc sĩ danh tiếng như Lệ Thanh, Hà Thanh, Minh Diệu, Khánh
Ngọc, Mạnh Phát, Thu Hồ, Quách Đàm, Anh Ngọc… Năm sau ông là trưởng ban
tổ chức Đại hội thi đua Văn nghệ toàn quốc ở cấp quốc gia, đã huy tụ
trên 40 đoàn văn nghệ đại diện cho cả miền Nam cùng tranh giải suốt 15
ngày đêm tại Sài Gòn. Ông cũng từng nhận giải âm nhạc quốc gia, một giải
thường do Đệ nhất phu nhân Trần Lệ Xuân trao tặng. - Nguyễn Văn
Đông còn là giám đốc hãng băng đĩa nhạc Continental và Sơn Ca, cộng tác
với những nhạc sĩ tên tuổi như Lê Văn Thiện, Văn Phụng, Nghiêm Phú Phi, Y
Vân… Hai cơ sở của ông cho ra đời nhiều chương trình tân nhạc cũng như
cổ nhạc gồm các vở tuồng và cải lương. Chính Nguyễn Văn Đông là người đã
tiên phong thực hiện album riêng cho từng ca sĩ mà trước đó chưa từng
ai làm. Ông đã thực hiện loạt băng nhạc Sơn Ca nổi tiếng trong đó có
Khánh Ly với băng nhạc Sơn Ca 7, Thái Thanh và ban Thăng Long- Sơn Ca
10, Lệ Thu – Sơn Ca 9, Phương Dung – Sơn Ca 5 và 11, Giao Linh – Sơn Ca
6, Sơn Ca – Sơn Ca 8… và một số album riêng cho Trịnh Công Sơn. -
Nhiều sáng tác của Nguyễn Văn Đông viết về chủ đề người lính miền Nam
thời đó. Nhạc phẩm “Phiên gác đêm xuân” được ông viết vào đêm 30 Tết năm
1956 khi gác phiên ở khu 9 Đồng Tháp Mười. “Chiều mưa biên giới” ra đời
năm 1956 và nổi tiếng qua tiếng hát của Trần Văn Trạch. “Chiều mưa biên
giới” và “Mấy dặm sơn khê” đã từng gây cho ông nhiều khó khăn khi bị Bộ
Thông tin Việt Nam Cộng hòa ra quyết định cấm phổ biến vì lý do phản
chiến vào năm 1961. “Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp” nổi tiếng qua tiếng
hát của Hà Thanh nhưng thường bị nhầm với nhạc phẩm Khúc tình Kinh Kha
của Phạm Duy. Hà Thanh cũng chính là ca sĩ trình bày thành công nhất các
nhạc phẩm của ông. - Nguyễn Văn Đông còn có nhiều bút danh khác
như Phượng Linh, Phương Hà trên một số nhạc phẩm tình cảm như “Khi đã
yêu“, “Thầm kín“, “Niềm đau dĩ vãng“, “Nhớ một chiều xuân“… Với bút danh
Đông Phương Tử và Phượng Linh, ông đã viết nhạc nền và đạo diễn cho
trên 50 vở tuồng, cải lương nổi tiếng ở miền Nam trước năm 1975 như Nửa
đời hương phấn, Đoạn tuyệt, Tiếng hạc trong trăng, Mưa rừng… - Một số tác phẩm :
- Anh Anh trước, tôi sau Bà mẹ hai con Bài ca hạnh phúc Bến đò biên
giới Bông hồng cài áo trắng[3] Chiều mưa biên giới Chúc tết (Đông Phương
Tử) Chuyện tình hoa pensée Cuốn theo chiều gió Cung thương ngày cũ (đồng
sáng tác với Mạnh Phát) Dáng xuân xưa Đêm buồn (đồng sáng tác với Lam
Phương) Đêm thánh huy hoàng Đôi bờ thương nhớ Đồng Tháp duyên gì (ký bút
hiệu Vì Dân và viết chung với Minh Kỳ) Hải ngoại thương ca Hiến dâng Khúc
tình ca hàng hàng lớp lớp Khúc xuân ca Lá thư người lính chiến Lời hứa ban
đầu (Phương Hà) Màu xanh Noel (Phương Hà) Mấy dặm sơn khê Mùa sao sáng Ngày
mai anh về Ngày vui pháo nhuộm đường Người tình yêu dấu Nguyện cầu trên bến
ngàn năm Nếu có em bên anh Nhớ một chiều xuân Nhớ người viễn xứ (đồng sáng
tác với Lâm Tuyền) Núi và gió Phiên gác đêm xuân Sắc hoa màu nhớ (Vì
Dân) Thu hoài cảm Tình cố hương Tình đầu xót xa Trái tim Việt Nam Truông
mây Về mái nhà xưa Vô thườngViệt Nam hôm nay (Phương Hà) Xa người mình yêu
(Phương Hà) Xin chúa thấu lòng con - Phượng Linh - Bóng nhỏ
giáo đường Cay đắng tình đời Chiếc bóng công viên Cô nữ sinh Gia Long Dạ
sầu Đoàn chim cánh sắt (đồng sáng tác với Ngọc Sơn) Đom đóm Đoạn tuyệt Giáo
đường chiều chủ nhật Khi đã yêu Lời giã biệt Nỗi buồn duyên kiếp Niềm đau dĩ
vãng Thầm kín (Bẽ bàng) Thương muộn Thương về mùa đông biên giới Tình người
ngoại đạo Xin đừng trách anh Soạn lời Việt: Ave Maria
(Franz Schubert) Đêm thánh vô cùng (“Stille Nacht” của Franz Xaver
Gruber) Hồi chuông nửa đêm (“The One Horse Open Sleigh“, tức “Jingle
Bells“, của James Pierpont)Nguồn : wikipedia.org NHỮNG CA KHÚC CỦA NGUYỄN VĂN ĐÔNG: TÌNH NGƯỜI NGOẠI ĐẠO NHỚ MỘT CHIỀU XUÂN VỀ MÁI NHÀ XƯA SẮC HOA MÀU NHỚ
Phu nhân nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông chịu tang bên linh cữu chồng. (Hình: Trần Tiến Dũng/Người Việt)
SÀI GÒN, Việt Nam (NV) – Những ngày sau Tết Mậu Tuất, người dân Sài Gòn nhận tin buồn về sự ra đi của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông. Thông tin về cuộc đời binh nghiệp và sự nghiệp âm nhạc của vị cựu sĩ
quan cao cấp quân đội Việt Nam Cộng Hòa đầy khắp các trang mạng cá nhân.
Điều này một lần nữa cho thấy, sự thật lịch sử dù bị khỏa lấp hay bôi
xóa ở mức độ nào đi nữa, thì tấm gương những người trí thức Quốc Gia
chân chính phụng sự tổ quốc Việt Nam vẫn sáng ngời trong lòng dân tộc.
Trong
không gian giản dị của tang lễ nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông trên đường
Nguyễn Trọng Tuyển, Phú Nhuận, Sài Gòn; người đến viếng không khỏi xúc
động và ca từ bài Chiều Mưa Biên Giới của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông lại
vang lên. “Chiều mưa biên giới anh đi về đâu? Sao còn đứng ngóng nơi
giang đầu. Kìa rừng chiều âm u rét mướt. Chờ người về vui trong giá buốt
người về bơ vơ…” Linh cữu và di ảnh nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông. (Hình: Trần Tiến Dũng/Người Việt)Linh cữu của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông được quàn tại tư
gia: 271A Nguyễn Trọng Tuyển, phường 10, quận Phú Nhuận, Sài Gòn. Lễ
động quan diễn ra vào 12 giờ ngày 2 Tháng Ba, nhằm ngày 15 tháng Giêng
Mậu Tuất, sau đó nhạc sĩ được hỏa táng tại nghĩa trang Bình Hưng Hòa. Chiều Sài Gòn không hề giống nỗi buồn ở chốn hoàng hôn của người lính
chiến nơi biên cương, nhưng tâm thức tưởng nhớ vị quân nhân, người nhạc
sĩ chân chính vừa vĩnh biệt đượm màu u ẩn. Hầu chuyện phu nhân của nhạc sĩ, bà cho biết. Lúc ông từ nhà tù của
chế độ Hà Nội về, bệnh tật khiến ông không đi, đứng được, ông chỉ nằm đó
như một cái xác, không người thân nào tin ông có thể sống. Hàng xóm ai
cũng thương cảm. Nhưng rồi bằng nghị lực phi thường và sự chăm sóc của
gia đình ông vượt qua tình trạng bạo bệnh mắc phải trong thời gian 10
năm chịu lao tù. Cùng lúc viếng tang lễ nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông là vợ chồng ca sĩ Giao
Linh. Phu quân của ca sĩ Giao Linh thuật lại. Trước lúc ra đi, nhạc sĩ
Nguyễn Văn Đông có dặn dò gia đình. Đừng nhận phúng điếu cho dù số tiền
phúng điếu để được sử dụng làm từ thiện cũng không nên, vì ông với gia
cảnh không con cháu sau này biết lấy ai trả nợ đáp lễ. Giữa một con đường Sài Gòn chiều tan tầm đông người, xe đông đúc,
tang lễ vị trí thức, sĩ quan quân lực VNCH, người nhạc sĩ lớn chỉ có mỗi
người vợ chung thủy chịu tang. Cảnh tang lễ tại tư gia nhạc sĩ trên đường Nguyễn Trọng Tuyển, Phú Nhuận, Sài Gòn. (Hình: Trần Tiến Dũng/Người Việt)Sau biến cố 1975, thường khi nhiều người thuộc thế hệ trẻ, đặt câu
hỏi. Vì sao không có đủ thông tin về những vị trí thức chân chính đã
phục vụ chính thể VNCH? Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông là người con sinh ra và
trưởng thành của đất Sài Gòn Gia Định, người đã chọn ở lại để được về
với đất mẹ như lúc trước biết cố 1975 người đã chọn sự nghiệp binh
nghiệp và âm nhạc, đặt tình yêu nước lên trên hết với tất cả danh dự và
tránh nhiệm; cả khi phải buộc phải tồn tại trong nghịch cảnh lịch sử vẫn
một lòng gìn giữ khí tiết của người phụng sự chính nghĩa Quốc Gia. Hôm nay, vĩnh biệt vị nhạc sĩ lớn Nguyễn Văn Đông, nhưng các ca khúc
vang danh của ông vẫn vang mãi trong lòng các thế hệ trẻ Việt Nam. (Trần Tiến Dũng) Người Việt
1948: Tốt nghiệp trường Hàng Hải Thương Thuyền Sài Gòn. 1952: Theo học Khóa 1 Trường Sĩ Quan Hải Quân. Tốt nghiệp cấp bậc Hải Quân Thiếu Úy. 1953: Vinh thăng Hải Quân Trung Úy. Hạm Trưởng đầu tiên Giang Vận Hạm HQ-534 1954: Hải Quân Đại Úy Hạm Trưởng Giang Pháo Hạm HQ-330. Chỉ Huy Trưởng Giang Lực Miền Đông trong những năm đầu của Đệ Nhất Cộng Hòa, tham gia các Chiến Dịch Miền Tây, châu thổ sông Cữu Long, Rừng Sát và Đồng Tháp Mười. 1955: Hạm Trưởng Trợ Chiến Hạm HQ-226 1956: Hải Quân Thiếu Tá Hạm Trưởng Hộ Tống Hạm HQ-03 Chỉ Huy Trưởng Hải Lực, trách nhiệm toàn bộ Hạm Đội Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa. 1957: Tham Mưu Trưởng Hải Quân Du hành quan sát các Tổ Chức Hành Quân Huấn Luyện và Quản Trị của Hải Quân Hoa Kỳ. 1958: Tốt nghiệp khóa Hậu Sĩ Quan tại Monterey, California Hoa Kỳ và các khóa phòng Tai Nạn, Huấn Luyện Viên Hành Quân Đổ Bộ. 1959: Chỉ Huy Trưởng Hải Trấn, trách nhiệm về các cơ sở Hải Quân trên bộ, các Quân Trường và Trung Tâm Huấn Luyện Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang. 1960: Tốt nghiệp khóa Quản Trị và Điều Hành Hải Quân Công Xưởng tại Honolulu, Hawaii Hoa Kỳ. Hải Quân Trung Tá Giám Đốc Hải Quân Công Xưởng Sài gòn. 1965: Tốt nghiệp khóa Cao Đẳng Hải Chiến Newport, Rhode Island, Hoa Kỳ. - Tham Mưu Trưởng Hải Quân. - Hải Quân Đại Tá, Phụ Tá Hải Quân Tham Mưu Phó Hành Quân - Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH. 1967: Tháng 5, sáng lập viên và Chỉ Huy Trưởng đầu tiên Trường Đại Học Chiến Tranh Chính Trị Đà Lạt. 1968: 30-10 Chủ Tọa Lễ Khai giảng khóa 2 Nguyễn Trải Đại Học Chiến Tranh Chính Trị. 1970: Tư Lệnh Phó Hải Quân. Ngày 1-11 Vinh Thăng Phó Đề Đốc nhiệm chức. 1971: Tháng 6. Chủ Tịch Ủy Ban Hải Quân Bài Trừ Ma Túy. 1973: Du học khóa Quản Trị Quốc Phòng tại Monterey, California Hoa Kỳ. 1974: Vinh thăng Đề Đốc nhiệm chức. - Ngày 1-11 Tư Lệnh Hải Quân thay thế Đề Đốc Trần Văn Chơn. 1975: Ngày 24 tháng 3, bàn giao chức Tư Lệnh Hải Quân cho Phó Đô Đốc Chung Tấn Cang. - Đầu tháng 4, Phụ Tá Quốc Vụ Khanh đặc trách tiếp đón đồng bào di tản từ Miền Trung. - Ngày 29 tháng 4, lúc 6 giờ chiều di tản trên Khu Trục hạm Trần Hưng Đạo HQ-1. - Định cư tại Federicksburg, Virginia Hoa Kỳ. 2018: "Cựu Tư Lệnh Hải Quân VNCH, Đề Đốc Lâm Ngươn Tánh đã quá vãng ngày Chúa Nhật 02/11/2018." tại Virginia Hoa Kỳ.
Video Phủ Quốc Kỳ VNCH
Trường Cao-Đẳng Hải-Chiến Hải-Quân Hoa-Kỳ
(United States Naval
War College)
Lâm Ngươn Tánh
Lời giới thiệu:
Cựu Đề-Đốc Lâm Ngươn Tánh, nguyên Tư-Lệnh
Hải-Quân V.N.C.H. xuất thân khóa I Hải-Quân Nha-Trang. Ông là một trong số rất
ít sĩ quan cao cấp Hải-Quân Việt-Nam còn giữ được mối liên lạc mật thiết với
Trường Cao-Đẳng Hải-Chiến Hải-Quân-Hoa-Kỳ.
Bài biên soạn công phu sau đây của cựu
Đề-Đốc Lâm Ngươn Tánh sẽ giúp độc giả thấu triệt được nhiều điều hữu ích về
ngôi trường quân sự mà hầu hết các cấp lãnh đạo Hải-Quân V.N.C.H. đều đã theo
học.
“Viribus Mare
Victoria” (Chiến thắng của con người trên đại dương) là phương châm của một cơ
quan huấn luyện cao cấp nhất trong Hải-Quân Hoa-Kỳ: Trường Cao-Đẳng Hải-Chiến
(CĐHC) Hải-Quân Hoa-Kỳ.
Trường CĐHC tọa
lạc trên bán đảo Coaster Harbor Island của thị xã Newport, nằm trong vịnh
Narragansett thuộc Rhode Island, một tiểu bang nhỏ nhất của Hoa-Kỳ. Thị xã
Newport, đặc biệt vào mùa Hè, là một địa danh nổi tiếng trong ngành du lịch,
nhờ khí hậu tương đối mát mẻ; những bãi biển cát trắng, nước trong; và những
lâu đài lộng lẫy như The Elms, The Breakers, The Marble House, Chateau-Sur-Mer,
Rose Cliff, v. v… Newport cũng là nơi hội ngộ của những tay đua thuyền buồm
quốc tế vào những dịp tổ chức America’s Cup.
Trường CĐHC có
đầy đủ tiện nghi về huấn luyện và tiếp vận cũng như tại hầu hết các Trung-Tâm
Huấn-Luyện Hải-Quân Hoa-Kỳ. Viện Trưởng là những sĩ quan cấp Đô-Đốc thâm niên,
hầu hết sau nhiệm kỳ chỉ huy Trường CĐHC, những vị này đều về hưu.
Được thành lập
vào năm 1884, Trường CĐHC thoạt tiên được tổ chức để huấn luyện sĩ quan
Hải-Quân Hoa-Kỳ theo học các khóa tham mưu (staff) và chỉ huy (command) dựa
trên những căn bản chiến thuật và chiến lược hải chiến để tổ chức những cuộc
hành quân
Đến năm 1956,
Trường CĐHC mở thêm những khóa huấn luyện cho sĩ quan Hải-Quân quốc tế đồng
minh của Hoa-Kỳ. Cơ cấu Trường CĐHC được hia thành hai khối:
Trường Tham-Mưu Hải-Quân (Naval Staff College)
Trường Chỉ-Huy Hải-Quân (Naval Command College
– NCC)
Riêng về Trường
Chỉ-Huy Hải-Quân thì có hai phần riêng biệt dành cho sĩ quan Hải-Quân Hoa-Kỳ
(HQHK) thuần túy (1) và sĩ quan Hải-Quân Đồng-Minh (2).
Để có nhiều ý
nghĩa liên quan mật thiết với Hải-Quân V.N.C.H., bài này được viết trên căn bản
không gian và thời gian của kỷ niên 1965 và đặc biệt chú trọng nhiều hơn về
Trường Chỉ-Huy Hải-Quân dành cho sĩ quan Hải-Quân đồng minh tại Trường CĐHC.
Trường
CĐHC/HQHK huấn luyện những sĩ quan Hải-Quân cấp tá thâm niên, để chuẩn bị cho
họ một căn bản chỉ huy dựa trên những lý thuyết chiến thuật và chiến lược quốc
tế hiện đại.
Khóa học kéo
dài 11 tháng, gồm những phần chính yếu như:
Thuyết giảng về chiến thuật tác chiến của các quân
binh chủng bạn có liên hệ đến hoạt động của Hải-Quân.
Lập trận đồ và chỉ huy hạm đội tham chiến (War
Games).
Đi quan sát các cơ cấu quân sự quốc phòng thuộc hệ
thống phòng thủ Hoa-Kỳ.
Viếng những cơ sở kỹ nghệ chiến tranh trong nước và
ngoài nước. (Field trips)
Viết một bài luận án theo các đề mục tùy ý về quân
sự, kinh tế, ngoại giao, v. v…
Khóa sinh đến
Trường CĐHC như một sứ giả của quốc gia mình; vì tất cả khóa sinh đều được
hưởng quy chế đặc miễn chính thức dành cho một ngoại giao đoàn quốc tế hợp lệ.
Ngoài quyền tự do di chuyển, khóa sinh còn được tự do phát biểu ý kiến ngay tại
quân trường vào những dịp khóa sinh hội thảo những đề tài trong chương trình
huấn luyện và trong những dịp thuyết trình tại các trường trung học địa phương
hay tại phòng Thương Mại Newport mà khóa sinh được Lions Club hoặc Rotary Club
mời như một thuyết trình viên danh dự.
Những ý kiến mà
khóa sinh đã phát biểu trong những dịp hội thảo – kể cả trong luận án – sẽ
không được tiết lộ hoặc phổ biến nếu không có sự chấp thuận của tác giả.
Trong nhiều
cuộc hội thảo chính thức, khóa sinh thẳng thắn chỉ trích chính sách ngoại giao
của Hoa-Kỳ, đường lối Hoa-Kỳ viện trợ cho các quốc gia nhược tiểu và chính sách
thương mại và trao đổi với quốc tế. Đến khi đàm đạo trong những dịp “trà dư tửu
hậu” giữa khóa sinh và sĩ quan cán bộ HQHK, những chỉ trích về phương diện giáo
dục và xã hội của Hoa-Kỳ lại được tiếp tục. Ý niệm chung của khóa sinh là: “Chúng tôi đến đây với tư cách là đồng minh
của Hoa-Kỳ để hấp thụ những kinh nghiệm quý báu của Hải-Quân Hoa-Kỳ trong những
trận thế chiến đã qua; nhưng chúng tôi không hoàn toàn đồng đồng ý trên nhiều
vấn đề mà quốc gia của chúng tôi có nhiều ưu điểm hơn.”
Mặc dù có nhiều
dị biệt tư tưởng giữa khóa sinh đồng minh và sĩ quan huấn vụ, sau cùng tình
thân hữu ngày càng nẩy nở tốt đẹp suốt khóa học. Tinh thần “Tứ hải giai huynh
đệ” bao trùm không khí khóa học, làm cho khóa sinh và sĩ quan huấn vụ quân
trường thông cảm và hiểu biết nhau hơn, khắng khít nhau hơn, để sau cùng tạo ra
một “Tinh thần Trường Chỉ-Huy Hải-Quân Newport”. (“The Spirit of The Naval
Command College).
Điểm tế nhị
nhất là không hề xảy ra những xung đột hoặc đả kích công khai nào giữa các khóa
sinh tụ họp từ bốn phương trời, mang nhiều màu sắc khác biệt, không cùng ngôn
ngữ, tuổi tác chênh lệch và đang có những rắc rối về vấn đề chính trị quốc gia.
Thật vậy, trong
khóa học năm 1964-1965 có bốn quốc gia đang trong tình trạng tranh chấp lãnh
thổ với nhau. Đó là Thổ-Nhỉ-Kỳ với Hy-Lạp và Ấn-Độ với Pakistan. Tuy nhiên,
trong suốt khóa học, mặc dầu sự thân tình giữa đại diện các quốc gia này không
được biểu lộ một cách sâu đậm, nhưng trái lại cũng không hề xảy ra một cuộc
đụng chạm nào.
Vì thời gian
thụ huấn khá dài, khóa sinh thuộc các quốc gia Âu-Châu, Mỹ-Châu và Trung-Đông
đem theo gia đình khi đến nhập học. Khóa sinh các nước Á-Châu và Phi-Châu, có
thể vì tình trạng kinh tế và chính trị, không đem theo gia đình.
Khóa sinh đến
trình diện nhập khóa và lập thủ tục tại Luce Hall. Luce Hall là bộ chỉ huy và
cũng là cơ quan hành chánh của Trường CĐHC. Tại Trường CĐHC, khóa sinh được
theo quy chế ngoại trú, được tự do sinh hoạt nơi nào mình thích, miễn là phải
tham dự đầy đủ những giờ thuyết giảng tại Trường hoặc tháp tùng những chuyến đi
quan sát xen kẻ trong chương trình huấn luyện.
Sự tiếp đón của
Trường CĐHC được tổ chức rất chu đáo và có vẻ trịnh trọng ngay từ khi khóa sinh
vừa đến phi trường Providence, thủ đô của Rhode Island, để đưa về tạm trú tại
BOQ, chờ hoàn tất thủ tục nhập khóa. Sĩ quan thuộc Bộ-Tham-Mưu quân trường được
chỉ định làm cố vấn cho mỗi khóa sinh về phương diện huấn luyện cũng như những
vấn đề tổng quát khác như thuê nhà, mua xe, mua bảo hiểm, v. v…
Khóa học bắt
đầu vào giữa tháng Tám.
Sinh hoạt của
khóa sinh bắt đầu từ giảng đường tại Simms Hall để nghe thuyết giảng về chiến
thuật và chiến lược hải chiến. Trưa, sau bữa ăn tại câu lạc bộ sĩ quan là những
giờ dành cho việc khảo cứu tài liệu mượn từ thư viện Mahan Hall đem về văn
phòng riêng của mỗi khóa sinh. Những đề tài thuyết giảng chiến thuật và chiến
lược rất bao quát và ngoạn mục với phim ảnh do thuyết trình viên trình bày.
Trong những dịp
hội thảo toàn khóa, một hội trường rộng lớn được xử dụng và trang trí như dành
cho một Đại Hội Đồng quốc tế nhóm họp. Mỗi khóa sinh có một bàn riêng, được
trưng bày Quốc-Kỳ và bảng tên của mình. Mọi sự sắp xếp đều theo mẫu tự, không
có sự phân biệt cấp bậc hoặc quốc gia của khóa sinh. Tại Mahan Hall và Luce
Hall, quốc kỳ các quốc gia đồng minh của Hoa-Kỳ được dương cao, trong số đó lá
Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ tung bay…
Sau nhiều tuần
huấn luyện tại Trường, khóa sinh bắt đầu đi quan sát. Phương tiện di chuyển hầu
hết là phi cơ của Hải-Quân Hoa-Kỳ. Những phi cơ này sẵn sàng tại căn cứ
Nagaransett Naval Air Station trên đảo Connecticut, bên kia vịnh về hướng Tây.
Thời gian 1965,
Newport Bridge dài hai miles nối liền
bán đảo Newport với đảo Connecticut chưa được xây cất, khóa sinh dùng tiểu đỉnh
của Naval Base để sang đảo. Đôi khi Trường lại dùng xe chuyên chở công cộng đưa
khóa sinh sang phi trường, nhưng phải dùng chiếc phà Jamestown Ferry để qua đảo
Connecticut.
Ngày nay
Newport Bridge tối tân đã thâu ngắn thời gian di chuyển từ Newport qua đảo
Connecticut, nhưng đã vô tình xóa đi hình ảnh thơ mộng của chiếc phà Jamestown
Ferry với đoàn hải âu lượn quanh tìm mồi do hành khách rải xuống biển.
Những chuyến đi
quan sát thường kéo dài trọn tuần lễ. Nào Bermuda thuộc Anh-Cát-Lợi nằm giữa
Đại-Tây-Dương, đến Roosevelt Roads Naval Air Station ở Puerto Rico nằm trong
biển Caribbean, rồi trở về Key West Naval Station và Miami thuộc Florida. Có
lần sang Ottawa, thủ đô Gia-Nã-Đại rồi trở về miền Trung Bắc Hoa-Kỳ để viếng
các xưởng kỹ nghệ sản xuất xe thiết giáp và quân xa đủ loại tại Detroit,
Michigan. Tiếp đến là viếng Bộ-Chỉ-Huy Không-Quân Chiến-Lược (Strategic Air Command)
đặt sâu trong lòng núi đá ở Nebraska. Trong chuyến đi miền Tây, đến vùng Bắc
California viếng căn cứ chiến thuật Không-Quân với hệ thống tiếp vận tân tiến
rồi sang thăm quốc hội California và Thống-Đốc Ronald Reagan tại Sacramento. Đi
về miền Nam California thì viếng những cơ xưởng chế tạo phi cơ tác chiến ở Los
Angeles và Bộ-Tư-Lệnh Hạm-Đội Thái-Bình-Dương tại San Diego. Chuyến đi kế tiếp
lại sang miền Đông quan sát những cuộc biểu diễn hành quân tại các Căn-Cứ
Thủy-Quân Lục-Chiến (Camp Le Jeune) và Lưc-Lượng Đặc-Biệt (Fort Bragg) ở North
Caroline; viếng Bộ Tư-Lệnh Hạm-Đội Đại-Tây-Dương đặt ở Norfolk, xưởng kỹ nghệ
đóng tàu tại Newport News, nơi chế tạo hàng không mẫu hạm và tiềm thủy đỉnh nguyên tử; viếng Williamsburg,
thủ đô đầu tiên của tiểu bang Virginia. Đi dần về miền Đông Bắc, viếng thủ đô
Hoa-Thịnh-Đốn với Quốc-Hội và Tòa Bạch-Ốc, rồi Ngũ-Giác-Đài. Chuyến kế tiếp
được viếng Nữu-Ước hoa lệ với tòa nhà Liên-Hiệp-Quốc, thị trường chứng khoáng
Wall Street, tượng Nữ Thần Tự-Do trước khi trở về New London, tiểu ban
Connecticut để quan sát Căn-Cứ và Trung-Tâm Huấn-Luyện Tiềm-Thủy-Đỉnh. Khóa
sinh được dịp ra khơi bằng Tiềm-Thủy-Đỉnh và quan sát cuộc thực tập tác chiếc
có xử dụng ngư lôi.
Tại mỗi nơi
thăm viếng khóa sinh được tiếp đón nồng hậu và chu đáo. Các vị Thống Đốc, Thị
Trưởng, Tư-Lệnh quân chủng hay Chỉ-Huy-Trưởng cơ quan thường có mặt để tiếp đón
phái đoàn khóa sinh. Trong những buổi dạ tiệc, quà kỷ niệm, chứng chỉ Công Dân
Danh Dự và chìa khóa vàng của thành phố được trao tặng cho mỗi khóa sinh.
Từ năm thành
lập cho đến nay (1990), Trường Chỉ-Huy Hải-Quân đã huấn luyện được 35 khóa học
liên tiếp, với 1.045 khóa sinh thuộc 70 quốc gia trên thế giới. Trong tổng số
khóa sinh có 545 người đã được thăng cấp Đô-Đốc Hải-Quân hoặc Tướng Lãnh
Lục-Quân và Không-Quân. Hai mươi sáu người giữ chức Tổng Bộ Trưởng trong chính
phủ hoặc làm Đại-Sứ. Đặc biệt có một cựu khóa sinh đã trở thành Tổng Thống!
Lý thuyết và
kinh nghiệm thâu nhận được sau những chuyến đi quan sát và tình thân hữu nẩy nở
trong khối khóa sinh quốc tế là những điểm son khóa sinh mang về khi hồi hương.
Những kỷ niệm vui buồn cũng giúp thêm nhiều màu sắc rực rỡ cho bức tranh kỷ
niệm của Trường Cao-Đẳng Hải-Chiến Hoa-Kỳ. Bất cứ một sĩ quan nào đã tu nghiệp
tại Trường Chỉ-Huy Hải-Quân đều không thể quên được phương châm đặc biệt của
Trường: Populos Mare Jungit. (Con người triền miên với biển cả).
1. Gồm một số sĩ quan Thủy-Quân Lục-Chiến (U.S. Marine
Corps), sĩ quan Lục-Quân, Không-Quân và công chức cáo cấp quốc phòng
2. Gồm một số sĩ quan Lục-Quân và Không-Quân của vài
quốc gia đồng minh.
Danh sách sĩ-quan Hải-Quân
V.N.C.H.
từng tu nghiệp tại Trường
Cao-Đẳng Hải-Chiến Hoa-Kỳ
Lâm Ngươn Tánh (1928), nguyên là một tướng Hải Quân của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, Đề đốc, cấp bậc Thiếu tướng.
Ông xuất thân từ khóa đầu tiên của trường Sĩ quan Hải quân Việt Nam, do
Chính phủ Quốc gia Việt Nam tiếp quản từ cơ sở cũ của Hải quân Pháp,
thành lập tại Duyên hải miền Trung. Ông đã tuần tự giữ các chức vụ chỉ
huy then chốt trong Quân chủng. Sau cùng là một Tư lệnh nhiều năng lực
của Quân chủng Hải quân. Năm 1974, ông đã trực tiếp chỉ huy cuộc Hải chiến Hoàng Sa chống lại Trung Quốc trên cương vị Phó Tư lệnh Hải quân kiêm Tư lệnh chiến dịch.
Ông
sinh ngày 18 tháng 10 năm 1928, trong một gia đình quan chức tại Lai
Vung, Sa Đéc, miền tây Nam phần, Việt Nam. Gia đình đó, có 4 người con
trai. Người cha là Lâm Nguơn Thơ (Ông nội là Lâm Nguơn Xuân) . Con là:
Lâm Nguơn Thành, Lâm NguơnTại, Lâm Nguơn Tâm và Lâm Nguơn Tánh.Năm 1947,
ông tốt nghiệp Trung học chương trình Pháp tại Cần Thơ với văn bằng Tú
tài bán phần (Part I). Năm 1948, ông trúng tuyển và theo học trường Hàng
hải Thương thuyền của Pháp tại Sài Gòn. Sau một năm, tốt nghiệp cấp
Thuyền trưởng và phục vụ ở ngành Hàng hải cho đến ngày gia nhập quân
đội.
Quân đội Quốc gia Việt Nam
Đầu
năm 1952, ông chính thức nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia theo hệ thống
được chuyển từ ngành Hàng hải sang Quân chủng Hải quân. Theo học khóa 1
tại ở trường Sĩ quan Hải quân Quốc gia Việt Nam đạt tại Nha Trang,[2] khai giảng ngày 1 tháng 1 năm 1952. Ngày 1 tháng 10 cùng năm, mãn khóa tốt nghiệp với cấp bậc Hải quân Thiếu úy ngành chỉ huy. Giữa năm 1953, ông được thăng cấp Hải quân Trung úy và được cử làm Hạm trưởng đầu tiên Giang vận hạm HQ-534. Cuối năm 1954, ông được thăng cấp Hải quân Đại úy,
chuyển sang làm Hạm trưởng Giang pháo hạm HQ-330. Sau dó. ông được cử
làm Chỉ huy trưởng Giang lực miền Đông trong thời kỳ đầu của Đệ nhất Cộng hòa, tham gia các chiến dịch miền Tây châu thổ sông Cửu Long, Rừng Sát và Đồng Tháp Mười.
Quân đội Việt Nam Cộng hòa
Cuối
tháng 10 năm 1955, chuyển sang phục vụ Quân đội Việt Nam Cộng hòa, ông
được cử làm Hạm trưởng Trợ chiến hạm HQ-226. Giữa năm 1956, ông được
thăng cấp Hải quân Thiếu tá
và được chỉ định làm Hạm trưởng Hộ tống hạm Đống Đa HQ-03. Tháng 10
Cùng năm ông được giữ chức vụ Chỉ huy trưởng Hải lực, trách nhiệm toàn
bộ Hạm đội Hải quân Việt Nam Cộng hòa. Ngày Quốc khánh Đệ nhất Cộng hòa 26 tháng 10 năm 1957, ông được bổ
nhiệm chức vụ Tham mưu trưởng trong Bộ tư lệnh Hải quân (lần thứ nhất).
thời gian này, ông được cử đi du hành quan sát các Tổ chức Hành quân,
Huấn luyện và Quản trị của Hải quân Hoa Kỳ. Tháng 5 năm 1958, ông được
cử đi du học và tốt nghiệp khóa Hậu Sĩ quan Hải quân tại Monterey, Tiểu
bang California, Hoa Kỳ và khóa Đề phòng và Xử lý tai nạn trong lãnh vực
chuyên môn, khóa Huấn luyện viên và Hành quân đổ bộ. Đầu năm 1959, mãn khóa học về nước, ông được cử giữ chức vụ Chỉ huy
trưởng Hải trấn, trách nhiệm về các cơ sở Hải quân trên bộ, các Quân
trường và Trung tâm Huấn luyện Hải quân Nha Trang. Giữa năm 1960, ông được đi du học và tốt nghiệp khóa Quản trị và Điều hành Hải quân Công xưởng tại Honolulu, Tiểu bang Hawaii.[3] Mãn khóa về nước, ông được thăng cấp Hải quân Trung tá và được cử giữ chức vụ Giám đốc Hải quân Công xưởng tại Sài Gòn. Đầu năm 1965, ông tiếp tục được cử đi du học và tốt nghiệp khóa Cao
đẳng Hải chiến (Naval War College) tại Newport, Tiểu bang Rhode Island,
Hoa Kỳ. Về nước, ông được cử làm Tham mưu trưởng tại Bộ Tư lệnh Hải quân
(lần thứ hai). Cùng năm, ông được thăng cấp Hải quân Đại tá,
giữ chức vụ Phụ tá Hải quân cho Tham mưu phó Hành quân của Bộ Tổng tham
mưu. Tháng 5 năm 1967, ông là sáng lập viên và là Chỉ huy trưởng đầu
tiên của trường Đại học Chiến tranh Chính trị tại Đà Lạt.[4] Năm 1968 và 1969, ông chủ toạ lễ khai giảng khóa Nguyễn Trãi 2 và lễ
tốt nghiệp khóa Nguyễn Trãi 1 Đại học Chiến tranh Chính trị. Đến tháng 7
năm 1970, ông nhận lệnh bàn giao trường Đại học Chiến tranh Chính trị
lại cho Đại tá Nguyễn Quốc Quỳnh.[5]
Tháng 8 cùng năm, ông được điều động trở lại Quân chủng giữ chức Phó Tư
lệnh Hải quân. Ngày Quốc khánh Đệ Nhị Cộng hòa 1 tháng 11 cuối năm, ông
được thăng Hải hàm Phó Đề đốc, cấp bậc Chuẩn tướng tại nhiệm. Ngày Quân lực 19 tháng 6 năm 1971, ông được đề cử làm Chủ tịch Tiểu
ban "bài trừ ma tuý" trong Quân chủng Hải quân. Đầu năm 1973, ông được
cử đi du học khóa Quản trị Quốc phòng tại Monterey, Tiểu bang
California, Hoa Kỳ. Tháng 3 năm 1974, ông được thăng Hải hàm Đề đốc, cấp bậc Thiếu tướng tại nhiệm. Ngày Quốc khánh 1 tháng 11 cùng năm, ông được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Hải quân thay thế Đề đốc Thiếu tướng Trần Văn Chơn[6]
1975
Ngày 24 tháng 3, ông được lệnh bàn giao chức vụ Tư lệnh Hải quân lại cho Phó Đô đốc Trung tướng Chung Tấn Cang
(nguyên Tư lệnh Biệt khu Thủ đô). Đầu tháng 4, ông được cử giữ chức vụ
Phụ tá Quốc Vụ Khanh, đặc trách tiếp đón đồng bào di cư từ miền Trung. Chiều ngày 29 tháng 4, ông đem gia đình di tản ra khơi trên Khu trục hạm Trần Hưng Đạo HQ-1 do Hải quân Trung tá Nguyễn Địch Hùng[7] điều khiển. Sau đó, ông cùng gia đình được sang Hoa Kỳ định cư tại Thành phố Federicburg thuộc Tiểu bang Virginia.
^Thời
điểm này, Chính phủ Quốc gia vẫn phải nhờ sự giúp đỡ của các Sĩ quan và
Hạ sĩ quan người Pháp trong việc huấn luyện khóa sinh
^Còn
gọi theo phiên âm là Hạ Uy Di, Tiểu bang Hải ngoại nằm ở bắc Thái Bình
Dương và cũng là Tiểu bang cuối cùng thứ 50 của Hoa Kỳ của Hoa Kỳ
^Thời điểm tướng Tánh làm Chỉ huy trưởng trường Đại học CTCT, các sĩ quan tham mưu trong Bộ chỉ huy còn có:
-Đại tá Đặng Thiện Ngôn (Có tư liêu ghi là Đàng Thiện Ngôn, sinh năm 1928 tại Tây Ninh. Tốt nghiệp khóa 1 Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức)
-Đại tá Đỗ Văn Sáu (Sinh năm 1928 tại Sài Gòn. Tốt nghiệp khóa 5 Võ bị Đà Lạt)
^Sinh năm 1922 tại Hà Nam. Tốt nghiệp khóa 4 Võ bị Đà Lạt
^Tướng Chơn giải ngũ với lý do đáo hạn tuổi và đã phục vụ quân đội trên 20 năm.
^Sinh năm 1934 tại Hà Nội. Tốt nghiệp khóa 3 trường Võ bị Hải quân Brest, Pháp)